Thời điểm nào nên đầu tư vào chứng khoán Việt Nam?

Ngày đăng : 07/08/2012 - 10:24 PM

 

Thời điểm nào nên đầu tư vào chứng khoán Việt Nam?

 

CEO quỹ Dragon Capital-ông Dominic Scriven cho rằng, lợi nhuận của các doanh nghiệp trong năm 2012 này được dự báo sẽ tăng.

 

Trên tờ Investment Week của Anh, ông Dominic Scriven, Giám đốc điều hành (CEO) quỹ Dragon Capital, đã có một bài viết đưa ra những lý do giải thích vì sao đã đến lúc nên rót thêm vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam, cho dù thị trường thời gian gần đây rơi vào trạng thái ảm đạm.

 

VnEconomy xin giới thiệu tới độc giả bản lược dịch bài viết này.

 

“Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên khi giới đầu tư quốc tế cân nhắc các cơ hội đầu tư. Thực tế này không phải chỉ vì Việt Nam vẫn còn bị xem là một thị trường sơ khai (frontier market), mà còn bởi Việt Nam có một thị trường chứng khoán kém hiệu quả và môi trường kinh tế vĩ mô nhiều bất ổn trong vòng 4 năm trở lại đây.

 

Tuy nhiên, những nhà đầu tư sẵn lòng đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vào danh mục có thể sẽ gặt hái thành quả, nhất là khi các khoản đầu tư của họ được thực hiện trước khi những cải cách kinh tế ở Việt Nam bám rễ ăn sâu.

 

Một thị trường sơ khai như Việt Nam có quan hệ tương tác ở mức thấp với các thị trường phát triển, mà điều này sẽ đem đến một sự đa dạng hóa danh mục đầu tư hiệu quả. Câu chuyện về đầu tư vào Việt Nam là câu chuyện nói nhiều tới các yếu tố nền tảng của nền kinh tế, các cải cách kinh tế, cũng như về sự đa dạng hóa danh mục.

 

Khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, giới quan sát tin tưởng rằng, Việt Nam sẽ trở thành cường quốc xuất khẩu tiếp theo ở khu vực châu Á. Sự kết hợp giữa các yếu tố dân số thuận lợi, nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, và một hệ thống chính trị ổn định đã tạo ra nền móng lý tưởng để phát triển hoạt động sản xuất phục vụ xuất khẩu.

 

Tuy nhiên, những kỳ vọng về “một cú đột phá chóng vánh từ cá lên con chip máy tính” đã đột ngột dừng lại bởi những quyết định chính sách vĩ mô dẫn tới một chu kỳ kinh tế không bền vững, từ phát triển bùng nổ tới tụt dốc.

 

Chính sách tài khóa và tiền tệ lỏng lẻo trong thời gian từ năm 2009-2010 là một trong những lý do chính dẫn tới lạm phát cao trong năm 2011. Hoạt động trợ giá cho các mặt hàng nước, xăng dầu, điện và một số mặt hàng thiết yếu khác cũng góp phần đẩy lạm phát cao. Tuy nhiên, vào cuối năm 2010, Chính phủ đã nhận ra vấn đề và bắt đầu theo đuổi mạnh mẽ các cải cách kinh tế.

 

Kết quả từ đó đến nay đã khá ấn tượng. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền, cũng như thâm hụt tài khóa, đã giảm xuống. Dự trữ ngoại hối tăng gấp đôi trong vòng 8 tháng và lần đầu tiên trong vòng 5 năm, tỷ giá đồng nội tệ ổn định suốt hơn 1 năm, cho thấy chu kỳ giảm giá tiền đồng có thể cuối cùng đã không lặp lại.

 

Các nền kinh tế đều đi qua các chu kỳ khác nhau, gồm các giai đoạn hồi phục, phát triển quá nóng, và trì trệ. Mỗi giai đoạn đều được định hình riêng biệt bởi xu hướng tăng trưởng của GDP và đường đi của lạm phát. Mỗi một giai đoạn trong số này cũng đều gắn kết với sự gia tăng giá trị vượt trội của một loại tài sản cụ thể.

 

Trong thời kỳ tăng trưởng GDP giảm và lạm phát cao nhưng đang giảm dần (reflation), trái phiếu thường được xem là kênh đầu tư hiệu quả nhất. Trong khi đó, ở vào thời kỳ phục hồi kinh tế, các nhà đầu tư có xu hướng rót tiền vào cổ phiếu. Thách thức đặt ra là làm thế nào xác định được thời điểm mà nền kinh tế chuyển giao sang giai đoạn tiếp theo để đưa ra quyết định quản lý danh mục tốt nhất có thể.

 

Từ quý 2/2010 đến quý 2/2011, kinh tế Việt Nam trải qua giai đoạn trì trệ, với các đặc trưng là lạm phát tăng nhanh, tăng trưởng GDP suy giảm và một thị trường chứng khoán èo uột. Vào quý 3/2011, Việt Nam bước vào giai đoạn mà tăng trưởng GDP vẫn yếu, lợi nhuận èo uột, nhưng lạm phát đã giảm tốc (gọi là giai đoạn reflation).

 

Câu hỏi quan trọng nhất đặt ra là: khi nào Việt Nam sẽ chuyển sang giai đoạn phục hồi? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét về vấn đề lạm phát và khi nào tăng trưởng GDP sẽ chạm đáy.

 

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đạt đỉnh điểm 23,1% vào tháng 8/2011 và liên tục giảm tốc từ đó đến nay. CPI tháng 5/2012 tăng 0,18% so với tháng 4 và tăng 8,3% so với cùng kì năm 2011. Lạm phát 5 tháng đầu năm là 2,7% so với cuối năm 2011. CPI tháng 9 được kì vọng tăng 6% so với cùng kì năm trước và giữ ổn định khoảng 7% cho đến cuối năm, dưới mức trung bình 9% trong thập kỷ qua.

 

Cũng giống như ở các nước Âu-Mỹ, ở Việt Nam, các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản gánh một lượng nợ lớn. Tuy nhiên, mức độ vay nợ của các hộ gia đình ở Việt Nam không giống như ở các nước Âu-Mỹ. Mức độ vay nợ theo các loại hình thẻ tín dụng và thế chấp nhà so với GDP của các hộ gia đình ở Việt Nam chỉ là 12% vào năm 2010, trong khi tổng dư nợ tín dụng tương đương tới 136% GDP. Kể từ đó trở đi, Việt Nam đã bắt đầu quá trình giảm nợ, với tổng dư nợ tín dụng so với GDP còn 117% vào cuối năm 2011.

 

Theo một nghiên cứu mà McKinsey tiến hành trên 45 trường hợp trước đây về tác động của quá trình giảm nợ đối với tăng trưởng GDP sau một cuộc suy giảm thoái, tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến sẽ chạm đáy trong vòng 2-3 năm kể từ khi bắt đầu giảm nợ.

 

Việt Nam bắt đầu quá trình giảm nợ vào năm 2011. Do đó tăng trưởng GDP dự kiến sẽ chạm đáy vào đầu năm 2013 hay 2014. Tuy nhiên, do mức nợ của các hộ gia đình thấp, có thể tin rằng tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ chạm đáy sớm hơn, với mức đáy xuất hiện vào quý 3-4/2012 hoặc đầu năm 2013. Đó sẽ là những thời điểm tối ưu để đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam.

 

Thêm một lý do nữa để thực hiện đầu tư vào thời điểm trên, là lợi nhuận của các doanh nghiệp trong năm 2012 này được dự báo sẽ tăng. Các cuộc trao đổi với nhiều công ty cho thấy, dự báo lợi nhuận doanh nghiệp năm nay có xu hướng tăng hơn là giảm. Theo dự báo, hệ số giá trên thu nhập (P/E) năm 2012 là 9 lần, với chỉ số VN-Index ở mức 450 điểm và tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) đạt 18% so với mức giảm 9% của năm 2011.

 

Lãi suất huy động tiền gửi từ 12-14% của Việt Nam là cao nhất châu Á. Hầu hết các quốc gia khác đều có lãi suất huy động dưới 4%. Với tốc độ lạm phát giảm, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực thực sự có nhiều cơ hội để vận dụng linh hoạt chính sách tiền tệ.

 

Bởi vậy, có thể kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ đẩy mạnh việc nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ. Ngoài ra, chúng tôi cũng cho rằng, lãi suất tiền gửi sẽ giảm 400 điểm cơ bản, còn 8%/năm, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán”.

 

Theo Yến Thanh

 VnEconomy

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Petrovietnam ra mắt bộ chỉ số PNV-Index

Ngày đăng : 04/08/2012 - 8:17 PM

 

Petrovietnam ra mắt bộ chỉ số PNV-Index

 

 

Bộ chỉ số này sẽ phản ánh diễn biến giá cổ phiếu và tình hình hoạt động của hơn 30 doanh nghiệp trong ngành dầu khí.

 

Ngày 3/8/2012, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) chính thức ra mắt Bộ chỉ số PVN-Index. Bộ chỉ số này sẽ phản ánh diễn biến giá cổ phiếu và tình hình hoạt động của hơn 30 doanh nghiệp trong ngành dầu khí.

 

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện có 32 doanh nghiệp thành viên niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán, chiếm 14,3% vốn hóa toàn Thị trường Chứng khoán Việt Nam.

 

Bộ chỉ số PVN-Index được chia làm 3 nhóm chính: nhóm chỉ số đại diện, nhóm chỉ số đầu tư và nhóm chỉ số ngành. Nhóm chỉ số đại diện bao gồm tất cả các công ty niêm yết và đăng ký giao dịch cổ phiếu trên 3 sàn chứng khoán Hà Nội, Hồ Chí Minh và UpCOM.

 

Nhóm chỉ số đầu tư, cụ thể là PVN10, bao gồm 10 công ty đứng đầu về giá trị vốn hóa, có điều chỉnh theo số lượng cổ phiếu tự do giao dịch (free-float market capitalization) và tính thanh khoản.

 

Nhóm chỉ số ngành trong PVN-Index được phân ngành theo tiêu chuẩn quốc tế ICB (Industry Classification Benchmark) do Công ty FTSE - Anh quốc phát triển. Tiêu chuẩn phân ngành này hiện đang được áp dụng rộng rãi cho nhiều Chỉ số ngành trên thế giới.

 

Tất cả các chỉ số trong 3 nhóm chỉ số chính nêu trên đều được tính toán theo hai phương pháp: chỉ số giá (price index) và chỉ số lợi nhuận (total return index) nhằm phục vụ cho các đối tượng Nhà đầu tư khác nhau. Ngoài ra, PVN-Index được quy đổi theo 4 loại tiền tệ phổ biến: USD, EUR, JPY và VND, tạo điều kiện cho các NĐT nước ngoài xác định chính xác lợi nhuận.

 

Theo lãnh đạo PetroVietnam, PVN-Index là Bộ chỉ số chứng khoán đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế như: được tính theo cuối ngày và thời gian thực; được tính theo tổng lợi nhuận và giá cổ phiếu; được quy đổi theo các loại tiền tệ phổ biến; có sự điều chỉnh để tỷ trọng mỗi cổ phiếu không chiếm quá 15% trong mỗi chỉ số - nhằm làm giảm ảnh hưởng quá mức của các cổ phiếu lớn; cổ phiếu đáp ứng các tiêu chuẩn về vốn hóa thị trường, tính thanh khoản…

 

Bộ chỉ số PVN–Index được xây dựng và quản lý bởi Hội đồng chỉ số gồm các thành viên là các chuyên gia cao cấp và có uy tín trong ngành Dầu khí và trong các lĩnh vực Kinh tế, Tài chính, Chứng khoán trong và ngoài nước.

 

Theo Khổng Nhung

Vnmedia


Tìm “đường đi” cho Quỹ hưu trí vào TTCK

Ngày đăng : 02/08/2012 - 9:30 PM

 

Tìm “đường đi” cho Quỹ hưu trí vào TTCK

 

Qũy Hưu trí dự kiến cho phép thí điểm thành lập Quỹ từ năm 2013. Từ đây, mở ra cơ hội tạo thêm dòng tiền mới cho TTCK.

 

Trong khuôn khổ Dự án nghiên cứu Quỹ hưu trí bổ sung, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) đang xây dựng khung pháp lý cho sự ra đời của Quỹ, với dự kiến cho phép thí điểm thành lập Quỹ từ năm 2013. Từ đây, mở ra cơ hội tạo thêm dòng tiền mới cho TTCK.

Thí điểm lập quỹ từ năm 2013 

Bà Trần Thị Thúy Nga, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội (Bộ LĐTB&XH) cho biết, Quỹ hưu trí bổ sung (quỹ hưu trí tự nguyện) là quỹ do các DN, tổ chức tự nguyện đóng góp thêm (ngoài tiền bảo hiểm xã hội bắt buộc) cho người lao động, để sử dụng vào mục đích kinh doanh nhằm chia lợi tức, đảm bảo cho CBCNV một khoản thu nhập về hưu (ngoài lương hưu do bảo hiểm xã hội chi trả) cao hơn mức lương hưu hiện tại.

Cũng theo bà Nga, Bộ LĐTB&XH đang khẩn trương dự thảo khung pháp lý cho việc ra đời của Quỹ hưu trí bổ sung. Lộ trình xây dựng và hoạt động của Quỹ đã được Bộ đề xuất. Theo đó, dự kiến giai đoạn 1 (2012 - 2015) sẽ hình thành khung pháp lý, tổ chức thí điểm đối với một số tập đoàn, DN trong nước và nước ngoài.

Trong năm 2013, một số đơn vị sẽ thí điểm thực hiện Quỹ hưu trí bổ sung. Giai đoạn 2 (2015 - 2020) có nhiệm vụ chính là hoàn thiện khung pháp lý, mở rộng đối tượng tham gia đóng góp vào Quỹ.

Giai đoạn 3 (sau năm 2020), tập trung nghiên cứu chuyển đổi mô hình Quỹ hưu trí bổ sung từ hình thức tự nguyện sang bắt buộc... Để sớm hiện thực hóa lộ trình này, Bộ LĐTB&XH tiếp tục lắng nghe đóng góp, đề xuất của các nhà chuyên môn, DN, để đảm bảo tính khả thi cho khung pháp lý khi được ban hành.

Phó tổng giám đốc một công ty quản lý quỹ lớn, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trên TTCK Việt Nam cho biết, theo thông lệ quốc tế, Quỹ hưu trí bắt buộc và Quỹ hưu trí bổ sung được đa dạng hóa đầu tư, trong đó chủ yếu vào 3 mảng chính là: cổ phiếu, trái phiếu và đầu tư trên thị trường tiền tệ… theo các tỷ lệ khác nhau, nhằm giảm thiểu rủi ro, đồng thời mang lại một khoản lợi nhuận khá ổn định cho Quỹ.

Tại nước ta, theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, thì trên thực tế một phần tiền từ Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc đã được đầu tư vào TTCK thông qua mua trái phiếu, tín phiếu, đồng thời một phần vốn từ quỹ này cũng đã đầu tư vào thị trường tiền tệ. Câu hỏi còn lại đặt ra là sắp tới khi sửa Luật Bảo hiểm xã hội và xây dựng hành lang pháp lý cho sự ra đời của Quỹ hưu trí bổ sung, cơ chế dẫn vốn từ Quỹ đầu tư vào thị trường cổ phiếu sẽ như thế nào?

Dẫn vốn vào thị trường cổ phiếu, cách nào?

Trả lời câu hỏi trên, bà Nga cho hay, theo thông lệ quốc tế, ngoài khắc phục tính đơn lẻ của hệ thống bảo hiểm xã hội hiện nay, Quỹ hưu trí bổ sung sẽ góp phần phát triển thị trường vốn. Trong quá trình thiết kế quy định pháp lý về hoạt động của Quỹ, Bộ LĐTB&XH đang tiếp tục tham vấn ý kiến của các chuyên gia, DN, để có chọn mô hình Quỹ sẽ đầu tư vào thị trường cổ phiếu hay không, nếu có thì tỷ lệ đầu tư cụ thể là bao nhiêu...

“Vấn đề trên đang được Bộ LĐTB&XH nghiên cứu kỹ lưỡng, nhằm vừa đảm bảo tính khả thi cho việc lập Quỹ, đồng thời tạo ra những cơ chế giúp cho Quỹ sinh lời với tỷ lệ hợp lý nhưng giảm thiểu rủi ro trong hoạt động đầu tư, qua đó mang lại nguồn lợi nhuận khả quan cho người lao động”, bà Nga chia sẻ.

Theo một số công ty quản lý quỹ, theo thông lệ quốc tế, đa dạng hóa các kênh đầu tư là nhu cầu tất yếu của Quỹ hưu trí bắt buộc và Quỹ hưu trí bổ sung.

Để đảm bảo hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận bền vững cho Quỹ, cũng như thiết thực hỗ trợ TTCK phát triển, khi thiết kế khung pháp lý cho sự ra đời của Quỹ, các nước thường quy định cụ thể tỷ lệ đầu tư mà Quỹ được phép đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau như: cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư vào thị trường tiền tệ.

Ở nhiều nước, ngoài cho phép đầu tư vào thị trường cổ phiếu trong nước, Quỹ còn được đầu tư mua cổ phiếu trên TTCK nước ngoài. Tùy trình độ phát triển của Quỹ, cũng như quy mô phát triển của TTCK mà tỷ lệ này được linh hoạt điều chỉnh cho phù hợp với định hướng phát triển Quỹ và TTCK mà cơ quan quản lý đề ra.

Theo Hữu Đạo

ĐTCK


Các tỷ phú thế giới đút túi thêm 15,2 tỷ USD trong tuần qua

Ngày đăng : 29/07/2012 - 12:00 AM

 

Các tỷ phú thế giới đút túi thêm 15,2 tỷ USD trong tuần qua

 

 

Những người giàu nhất thế giới vừa bổ sung thêm vào quỹ tài sản tổng cộng 15,2 tỷ USD nhờ sắc xanh hồi phục tại hầu khắp các thị trường chứng khoán.

 

Amancio Ortega

“Kiếm” được nhiều nhất trong tuần này là ông trùm bán lẻ Tây Ban Nha Amancio Ortega, cho thêm vào quỹ số tài sản 3 tỷ USD sau khi Inditex – hãng bán lẻ quần áo lớn nhất thế giới công bố kế hoạch xây dựng một trung tâm hậu cần có tổng diện tích lên tới 753.000 foot vuông (tương đương 7 hecta) ở Guadalajara, Tây Ban Nha. Kế hoạch kinh doanh mới đầy hấp dẫn khiến giá cổ phiếu Inditex tăng mạnh 3,8% trong tuần.

Thương vụ bạc tỷ này của Ortega đến trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp của Tây Ban Nha lên cao kỷ lục 24,6%. Hiện tại giá trị tài sản ròng của tỷ phú 76 tuổi này là 43,5 tỷ USD, giàu nhất châu Âu và đứng thứ 4 trong bảng tổng sắp các tỷ phú giàu nhất thế giới của Bloomberg.

Eike Batista

Eike Batista, tỷ phú giàu nhất tại Brazil vừa kiếm thêm 795 triệu USD trong tuần này nhờ đà hồi phục tích cực của thị trường cổ phiếu.

Tập đoàn dầu khí của tỷ phú giàu thứ 22 thế giới này có tên OGX Petroleo (OGXP3) & Gas Participacoes SA vừa tăng 12,8% giá trị thị trường sau 4 ngày giá dầu thế giới tăng tốc. Trong khi đó, một cỗ máy in tiền khác của Batista là công ty đóng tàu OSX Brasil SA (OSXB3) cũng tăng mạnh 11,2% giá cổ phiếu trong ngày hôm qua (26/7) sau khi giám đốc điều hành của công ty cho biết vừa chốt được một hợp đồng mới cung cấp giàn khoan dầu. Giá trị tài sản ròng của Batista hiện vào khoảng 21,3 tỷ USD.

Slim, Gates, Buffett và Bezos

Carlos Slim, 72 tuổi, vẫn là người giàu nhất thế giới khi tổng tài sản tăng thêm 1,4 tỷ USD trong tuần này bất chấp việc tập đoàn America Movil SAB (AMXL) - nhà cung cấp dịch vụ không dây lớn nhất châu Mỹ tính theo số lượng thuê bao - công bố giảm lợi nhuận trong quý II năm nay.

Bill Gates – tỷ phú giàu thứ 2 thế giới, hiện sở hữu khối tài sản chỉ kém Slim 12,7 tỷ USD sau khi tăng thêm 600 triệu USD trong tuần qua.

Đứng thứ 3 thế giới là huyền thoại đầu tư Warren Buffett, năm nay bước sang tuổi 82 tuổi, đang nắm trong tay 45,7 tỷ USD và quyền điều hành quỹ đầu tư Berkshire Hathaway Inc. 

Jeff Bezos, chủ sở hữu Amazon.com Inc (AMZN), nhà bán lẻ dịch vụ Internet lớn nhất thế giới trong tuần qua cũng tăng thêm 820 triệu USD trong tổng tài sản nhờ cổ phiếu hãng này vừa ghi nhận mức tăng cao nhất trong vòng 3 tháng.

Mark Zuckerberg

Ông chủ Facebook Mark Zuckerberg tuần này tiếp tục trở thành đề tài nóng trong giới chứng khoán khi giá cổ phiếu của mạng xã hội lớn nhất thế giới rơi xuống mức thấp thảm hại, chỉ bằng một nửa giá trị thị trường thời điểm IPO cách đây 10 tuần. Tổng tài sản của tỷ phú 28 tuổi này bốc hơi mất 2,5 tỷ USD trong tuần, và hiện chỉ còn 12,1 tỷ USD. 

Việc giới đầu tư tin rằng chủ tịch Ngân hàng Trung Ương châu Âu Mario Draghi sẽ sớm thúc đẩy các bước đi cụ thể trong kế hoạch giảm bớt thiệt hại do khủng hoảng nợ công gây ra, cùng với đó thủ tướng Đức Angela Merkel và Tổng thống Pháp Francois Hollande tuyên bố sự ràng buộc trách nhiệm sâu sắc của 2 cường quốc châu Âu để giữ cho khu vực đồng Euro còn nguyên vẹn, và họ sẽ làm tất cả mọi thứ cần thiết để bảo vệ đồng tiền chung khiến những lo ngại bấy lâu như được gỡ bỏ.

  

Hồng Liên 

Theo TTVN/Bloomberg


Warren Buffett: Đầu tư luôn cần một cái đầu lạnh

Ngày đăng : 27/07/2012 - 9:49 PM

 

Warren Buffett: Đầu tư luôn cần một cái đầu lạnh

 

 

50 năm sau lời khuyên của Buffett, tài chính thế giới lại đang trong một cơn bão mới, nặng nề hơn và dai dẳng hơn. Và lời khuyên đó chưa bao giờ sai.

 

Warren Buffett – huyền thoại đầu tư của phố Wall, không giống như các tỷ phú đầu tư khác, rất ít khi tuyên bố công khai các dự đoán hay nhận định thị trường.

Ít nhưng chất, những lời ông từng chia sẻ với các nhà đầu tư cách đây vừa tròn nửa thế kỷ vẫn tồn tại như một kim chỉ nam cho những ai muốn gia nhập và tồn tại trong thế giới cổ phiếu.

Buffet khẳng định, 3 hành trang quan trọng nhất mà nhà đầu tư cần là: “tích lũy kiến thức trước khi đầu tư”, “giữ một cách đầu lạnh” và “tham lam khi đám đông sợ hãi, sợ hãi khi đám đông tham lam”. Bên cạnh đó, công thức vàng cho những ai đầu tư dài hạn đó là “mua giá rẻ - nắm giữ - và kiểm soát”. 

Đã là quy luật, điều quan tâm nhất của bất cứ nhà đầu tư nào khi quyết định dấn thân là tiền của họ sẽ được dùng như thế nào, ai dùng chúng và lợi nhuận do nó đem lại là bao nhiêu. Bản tính tâm lý con người là e ngại rủi ro và coi trọng việc bảo toàn vốn. Tuy nhiên, nhà đầu tư muốn thành công cần chiến thắng tâm lý đó.

Hãy nhớ, luôn giữ một “cái đầu lạnh” trước mọi áp lực bởi giữa những rủi ro sẽ tiềm ẩn cơ hội. Ngoài ra, tính kiên nhẫn không bao giờ là thừa nếu bạn muốn có được một thương vụ ưng ý.

Dĩ nhiên, thị trường bao giờ cũng tràn ngập rủi ro.

Năm 1962, khủng hoảng tên lửa Cuba và chiến tranh lạnh 2 cực Nga –Mỹ khiến giới đầu tư sợ hãi, chỉ số Dow Jones trong một thời gian ngắn ngủi mất 23% giá trị, xóa sổ toàn bộ thành quả của cả thị trường 1 năm trước đó. 29/5 năm 1962, Dow Jones trong một ngày giảm 6% khiến cả thế giới chao đảo. Bức thư của Buffet ra đời trong hoàn cảnh đó.

50 năm sau ngày đó, tài chính thế giới lại đang trong một cơn bão mới, nặng nề hơn và dai dẳng hơn.

Buffet năm nay đã 82 tuổi, nhưng vẫn nguyên phong độ cùng sự nhạy cảm nghề nghiệp, vẫn sát cánh cùng diễn biến thị trường theo đúng cách mà ông thường làm: tập trung vào những món đầu tư dài hạn có chất lượng dựa trên phân tích sâu.

 

ĐP 

Theo TTVN/Marketwatch


Sang tuổi 13, TTCK sẽ tái cấu trúc mạnh mẽ

Ngày đăng : 26/07/2012 - 12:26 PM

 

Sang tuổi 13, TTCK sẽ tái cấu trúc mạnh mẽ

  

"12 năm qua, tuy kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, nhưng TTCK đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ…”.

 

Đó là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ trong cuộc trao đổi với phóng viên ĐTCK.

 

Thưa Bộ trưởng, đâu là những kết quả đáng khích lệ mà TTCK Việt Nam đạt được sau 12 năm phát triển?

Sau 12 năm hình thành, TTCK Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Trong suốt thời kỳ 2000 - 2005, mức vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP, nhưng năm 2007 đã đạt đến mức 47% GDP và trên 30% GDP trong những năm gần đây. 12 năm qua, TTCK đã huy động gần 650.000 tỷ đồng cho nền kinh tế (trong đó, riêng từ 2005 đến nay huy động gần 550.000 tỷ đồng).

Hệ thống tổ chức niêm yết liên tục gia tăng, từ chỗ chỉ có 2 công ty niêm yết, đến nay đã có 705 công ty. Quy mô các công ty niêm yết không ngừng được mở rộng, hình thành các công ty, ngân hàng và tập đoàn lớn nhờ huy động vốn qua TTCK.

Hệ thống NĐT cũng vậy, số lượng và kiến thức ngày càng gia tăng. Từ chỗ chỉ có 2.900 tài khoản, đến nay đã tăng lên gần 1,2 triệu tài khoản, thu hút gần 10 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Khuôn khổ pháp lý và cơ sở hạ tầng từng bước được củng cố, mở rộng. Công tác quản lý, giám sát TTCK ngày càng được hoàn thiện. Thị trường ngày càng minh bạch hơn...

Còn những tồn tại và hạn chế của TTCK là gì?

Bên cạnh những thành tựu trên đây, TTCK Việt Nam vẫn còn một số tồn tại. Cụ thể, cơ sở hàng hóa chưa đa dạng, chất lượng phát hành, niêm yết và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Thị trường còn có nhiều biến động, tính thanh khoản và cung cầu trong một số thời điểm có nhiều hạn chế.

Số lượng các tổ chức kinh doanh chứng khoán nhiều so với quy mô còn nhỏ của thị trường, chất lượng cũng như khả năng quản trị rủi ro còn thấp. Cấu trúc và cơ sở hạ tầng TTCK ngày càng được hoàn thiện, nhưng vẫn còn những điểm bất cập trước xu thế phát triển và hội nhập trong thời gian tới.

Để khắc phục những tồn tại trên, trong thời gian tới, Bộ Tài chính, UBCK tập trung vào những giải pháp chiến lược nào, thưa Bộ trưởng?

Để tiếp tục thúc đẩy TTCK phát triển một cách bền vững, Chính phủ đã ban hành chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020, đồng thời Bộ Tài chính đang trình Chính phủ Đề án tái cấu trúc TTCK và các DN bảo hiểm, trong đó tập trung vào tái cấu trúc 4 trụ cột chính.

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hàng hóa kết hợp với việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ chứng khoán, bảo hiểm; nâng cao chất lượng quản trị DN, quản trị rủi ro tại các tổ chức phát hành; bảo đảm tính công khai, minh bạch; từng bước áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Thứ hai, thu hẹp số lượng tổ chức tài chính trung gian; kiện toàn mô hình hoạt động các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế.

Thứ ba, đa dạng hóa cơ sở NĐT, phát triển hệ thống NĐT tổ chức; khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trung và dài hạn, đồng thời tăng cường công tác quản lý, giám sát, có giải pháp phù hợp, kịp thời để chủ động đối phó với biến động của dòng vốn này.

Thứ tư, tái cấu trúc tổ chức thị trường, các Sở GDCK theo các mục tiêu phát triển dài hạn của TTCK Việt Nam, bảo đảm thị trường hoạt động lành mạnh, ổn định, vững chắc, được quản lý, giám sát chặt chẽ; cơ cấu quản trị điều hành minh bạch, chuyên nghiệp; cơ cấu sản phẩm đa dạng, hoàn chỉnh; hoạt động thanh toán bù trừ an toàn.

Đâu là những giải pháp trước mắt mà Bộ Tài chính, UBCK ưu tiên triển khai nhằm thúc đẩy TTCK sớm trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ lực cho nền kinh tế?

Trước mắt, Bộ Tài chính, UBCK tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chính: triển khai tích cực Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ, trong đó chú trọng các giải pháp về thuế, đầu tư, giá cả, các giải pháp kích thích tiêu dùng, an sinh xã hội, xử lý vấn đề nợ…, nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế và từ đó tác động tốt đến TTCK.

Tiếp tục thúc đẩy và minh bạch hóa công tác cổ phần hóa, tạo thêm hàng hóa chất lượng cho TTCK, đồng thời thu hút nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Cải thiện thanh khoản của TTCK, thông qua các giải pháp kéo dài thời gian giao dịch, điều chỉnh biên độ, áp dụng các nghiệp vụ giao dịch mới, rà soát lại chính sách thuế đối với TTCK.

 

Cùng với đó, tiến hành nâng cao tiêu chuẩn niêm yết tại các Sở GDCK trên cơ sở sắp xếp lại bước đầu hàng hóa trên 2 Sở. Rà soát, phân loại và xử lý các tổ chức kinh doanh yếu kém, hướng tới việc nâng cao chất lượng quản trị và an toàn tài chính. Giảm bớt các thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài, cụ thể hóa các quy định nhằm thực hiện cam kết WTO.

Theo UBCK, đến hết tháng 6/2012, có tổng cộng 1.690 công ty đại chúng, trong đó 705 công ty đã niêm yết, 130 công ty đăng ký giao dịch trên UPCoM.

 

Sau 12 năm phát triển, hiện TTCK có 105 CTCK với 135 chi nhánh và 73 phòng giao dịch. Quy mô vốn điều lệ của tất cả các CTCK tính đến tháng 5/2012 là 35.941 tỷ đồng (không đổi so với cuối năm 2011). Tổng cộng có 1,2 triệu tài khoản, tăng thêm gần 12.000 tài khoản so với cuối năm 2011.

 

Toàn thị trường có 47 công ty quản lý quỹ, với số vốn điều lệ là 2.600 tỷ đồng, quản lý tổng tài sản khoảng 98.000 tỷ đồng. Có 23 quỹ đầu tư chứng khoán (17 quỹ thành viên, 6 quỹ đại chúng) và 29 văn phòng đại diện đang hoạt động.

  

Theo Hữu HòeĐTCK


 

Tin mới cập nhật