Sang tuổi 13, TTCK sẽ tái cấu trúc mạnh mẽ

Ngày đăng : 26/07/2012 - 12:26 PM

 

Sang tuổi 13, TTCK sẽ tái cấu trúc mạnh mẽ

  

"12 năm qua, tuy kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, nhưng TTCK đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ…”.

 

Đó là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ trong cuộc trao đổi với phóng viên ĐTCK.

 

Thưa Bộ trưởng, đâu là những kết quả đáng khích lệ mà TTCK Việt Nam đạt được sau 12 năm phát triển?

Sau 12 năm hình thành, TTCK Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Trong suốt thời kỳ 2000 - 2005, mức vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP, nhưng năm 2007 đã đạt đến mức 47% GDP và trên 30% GDP trong những năm gần đây. 12 năm qua, TTCK đã huy động gần 650.000 tỷ đồng cho nền kinh tế (trong đó, riêng từ 2005 đến nay huy động gần 550.000 tỷ đồng).

Hệ thống tổ chức niêm yết liên tục gia tăng, từ chỗ chỉ có 2 công ty niêm yết, đến nay đã có 705 công ty. Quy mô các công ty niêm yết không ngừng được mở rộng, hình thành các công ty, ngân hàng và tập đoàn lớn nhờ huy động vốn qua TTCK.

Hệ thống NĐT cũng vậy, số lượng và kiến thức ngày càng gia tăng. Từ chỗ chỉ có 2.900 tài khoản, đến nay đã tăng lên gần 1,2 triệu tài khoản, thu hút gần 10 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Khuôn khổ pháp lý và cơ sở hạ tầng từng bước được củng cố, mở rộng. Công tác quản lý, giám sát TTCK ngày càng được hoàn thiện. Thị trường ngày càng minh bạch hơn...

Còn những tồn tại và hạn chế của TTCK là gì?

Bên cạnh những thành tựu trên đây, TTCK Việt Nam vẫn còn một số tồn tại. Cụ thể, cơ sở hàng hóa chưa đa dạng, chất lượng phát hành, niêm yết và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Thị trường còn có nhiều biến động, tính thanh khoản và cung cầu trong một số thời điểm có nhiều hạn chế.

Số lượng các tổ chức kinh doanh chứng khoán nhiều so với quy mô còn nhỏ của thị trường, chất lượng cũng như khả năng quản trị rủi ro còn thấp. Cấu trúc và cơ sở hạ tầng TTCK ngày càng được hoàn thiện, nhưng vẫn còn những điểm bất cập trước xu thế phát triển và hội nhập trong thời gian tới.

Để khắc phục những tồn tại trên, trong thời gian tới, Bộ Tài chính, UBCK tập trung vào những giải pháp chiến lược nào, thưa Bộ trưởng?

Để tiếp tục thúc đẩy TTCK phát triển một cách bền vững, Chính phủ đã ban hành chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020, đồng thời Bộ Tài chính đang trình Chính phủ Đề án tái cấu trúc TTCK và các DN bảo hiểm, trong đó tập trung vào tái cấu trúc 4 trụ cột chính.

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hàng hóa kết hợp với việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ chứng khoán, bảo hiểm; nâng cao chất lượng quản trị DN, quản trị rủi ro tại các tổ chức phát hành; bảo đảm tính công khai, minh bạch; từng bước áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Thứ hai, thu hẹp số lượng tổ chức tài chính trung gian; kiện toàn mô hình hoạt động các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế.

Thứ ba, đa dạng hóa cơ sở NĐT, phát triển hệ thống NĐT tổ chức; khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trung và dài hạn, đồng thời tăng cường công tác quản lý, giám sát, có giải pháp phù hợp, kịp thời để chủ động đối phó với biến động của dòng vốn này.

Thứ tư, tái cấu trúc tổ chức thị trường, các Sở GDCK theo các mục tiêu phát triển dài hạn của TTCK Việt Nam, bảo đảm thị trường hoạt động lành mạnh, ổn định, vững chắc, được quản lý, giám sát chặt chẽ; cơ cấu quản trị điều hành minh bạch, chuyên nghiệp; cơ cấu sản phẩm đa dạng, hoàn chỉnh; hoạt động thanh toán bù trừ an toàn.

Đâu là những giải pháp trước mắt mà Bộ Tài chính, UBCK ưu tiên triển khai nhằm thúc đẩy TTCK sớm trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ lực cho nền kinh tế?

Trước mắt, Bộ Tài chính, UBCK tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chính: triển khai tích cực Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ, trong đó chú trọng các giải pháp về thuế, đầu tư, giá cả, các giải pháp kích thích tiêu dùng, an sinh xã hội, xử lý vấn đề nợ…, nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế và từ đó tác động tốt đến TTCK.

Tiếp tục thúc đẩy và minh bạch hóa công tác cổ phần hóa, tạo thêm hàng hóa chất lượng cho TTCK, đồng thời thu hút nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Cải thiện thanh khoản của TTCK, thông qua các giải pháp kéo dài thời gian giao dịch, điều chỉnh biên độ, áp dụng các nghiệp vụ giao dịch mới, rà soát lại chính sách thuế đối với TTCK.

 

Cùng với đó, tiến hành nâng cao tiêu chuẩn niêm yết tại các Sở GDCK trên cơ sở sắp xếp lại bước đầu hàng hóa trên 2 Sở. Rà soát, phân loại và xử lý các tổ chức kinh doanh yếu kém, hướng tới việc nâng cao chất lượng quản trị và an toàn tài chính. Giảm bớt các thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài, cụ thể hóa các quy định nhằm thực hiện cam kết WTO.

Theo UBCK, đến hết tháng 6/2012, có tổng cộng 1.690 công ty đại chúng, trong đó 705 công ty đã niêm yết, 130 công ty đăng ký giao dịch trên UPCoM.

 

Sau 12 năm phát triển, hiện TTCK có 105 CTCK với 135 chi nhánh và 73 phòng giao dịch. Quy mô vốn điều lệ của tất cả các CTCK tính đến tháng 5/2012 là 35.941 tỷ đồng (không đổi so với cuối năm 2011). Tổng cộng có 1,2 triệu tài khoản, tăng thêm gần 12.000 tài khoản so với cuối năm 2011.

 

Toàn thị trường có 47 công ty quản lý quỹ, với số vốn điều lệ là 2.600 tỷ đồng, quản lý tổng tài sản khoảng 98.000 tỷ đồng. Có 23 quỹ đầu tư chứng khoán (17 quỹ thành viên, 6 quỹ đại chúng) và 29 văn phòng đại diện đang hoạt động.

  

Theo Hữu HòeĐTCK

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Vốn ngoại, 12 năm ở Việt Nam

Ngày đăng : 26/07/2012 - 11:32 AM

 

Vốn ngoại, 12 năm ở Việt Nam

  

Giai đoạn năm 2013 - 2014 là thời hạn giải thể của một số quỹ đầu tư ngoại, vấn đề giữ chân dòng vốn ngoại càng trở nên có tính thời sự.

 

Trong lịch sử non trẻ củaTTCK Việt Nam, nhiều thời điểm vốn ngoại đóng vai trò tích cực, tạo ra những cú huých để thị trường thăng hoa. Tuy nhiên, cũng không ít lần dòng vốn ngoại tạo hiệu ứng ngược khiến chứng khoán nội địa chao đảo.

 

Giai đoạn năm 2013 - 2014 sắp tới là thời hạn giải thể của một số quỹ đầu tư ngoại, vấn đề giữ chân dòng vốn ngoại hiện càng trở nên có tính thời sự.

 

Hai thế hệ quỹ đầu tư
Vào cuối quý III tới đây, định kỳ 2 năm một lần, ĐHCĐ thường niên của các quỹ do Dragon Capital quản lý sẽ biểu quyết thông qua việc thoái vốn hay tiếp tục đầu tư tại TTCK Việt Nam.
Cần nhắc lại rằng, năm 2010, sự kiện lần đầu tiên Quỹ Vietnam Enterprise Investments Limited (VEIL) do Dragon Capital quản lý đã đứng trước nguy cơ giải thể trở thành sự kiện đình đám thu hút sự chú ý của dư luận. Tuy nhiên, vượt qua sức ép nặng nề, VEIL vẫn duy trì hoạt động tại Việt Nam.
Thành lập vào năm 1995, VEIL là quỹ đầu tư thuộc thế hệ thứ nhất (giai đoạn 1991 - 1997) hiếm hoi còn hoạt động tại TTCK Việt Nam.
Các quỹ đầu tư nước ngoài giai đoạn đó đều khá giống nhau ở quy mô khiêm tốn, đầu tư mang tính mạo hiểm, tìm kiếm cơ hội ở khối DNNN cổ phần hóa và sự ra đời của TTCK. Tuy nhiên, cuộc khủng khoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998 tràn qua nhiều quốc gia và khu vực. 
Nền kinh tế Việt Nam khi đó dù có độ mở khá thấp nhưng cũng không thoát khỏi vòng ảnh hưởng tiêu cực. Cả 7 quỹ đầu tư thuộc thế hệ thứ nhất chịu nhiều thử thách, phải tự thích ứng và lựa chọn các hướng đi rất khác nhau. 
Nếu như Templetion Vietnam Opportunities Fund và Vietnam Lazard Fund chọn cách đóng quỹ vào năm 1997 thì Bata Vietnam Fund, Vietnam Investment Fund chọn cách giảm vốn. Một số quỹ khác kiên định cầm cự, nhưng không lâu sau đó cũng phải ra đi như Vietnam Fund (2001), Vietnam Frontier Fund (2004).


Thời kỳ kế tiếp, giai đoạn 1997 - 2000, không có quỹ đầu tư nước ngoài mới nào được thành lập. Dấu ấn dòng vốn ngoại trong giai đoạn này chỉ là hình ảnh dòng người Hoa theo hình thức du lịch đổ bộ xuống một số sàn chứng khoán trước và sau khi tiếng cồng khai trương TTCK vang lên. 
Bắt đầu từ năm 2001, các NĐT tổ chức mới manh nha xuất hiện như Indochina Capital (2001), Mekong Capital (2002), Vina Capital (2003), PXP (2005). Sau này, chính họ trở thành các tay chơi tầm cỡ trên thị trường. 
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết cuối năm 2001, cộng với chuyển động chính sách trong việc góp vốn, mua cổ phần của khối ngoại tại các DN Việt Nam được xem là nhân tố thúc đẩy làn sóng quỹ thứ hai hình thành.
Tuy nhiên, đỉnh cao của làn sóng quỹ đầu tư thứ hai là giai đoạn 2006 - 2007 khi Việt Nam vào WTO. Một loạt gương mặt mới tinh xuất hiện huy động vốn để đầu tư vào Việt Nam: Korea Investment Trust Management (KITM), Tongkang, Golden Bridge, Prudential Plc, Bank Invest… 
Trong số các quỹ đầu tư thế hệ thứ nhất, một số cũng quay trở lại như Templeton. Nếu so với tổng tài sảnkhoảng 400 triệu USD của quỹ đầu tư thứ nhất, làn sóng thứ hai ấn tượnghơn hẳn khi riêng năm 2007, vốn đầu đầu tư gián tiếp hơn 7 tỷ USD. 
Các tay chơi lớn như Dragon Capital, Indochina Capital, VinaCapital chỉ mất vài tuần để gọi số vốn hàng trăm triệu USD từ các NĐT quốc tế, khi hai chữ Việt Nam như"thỏi nam châm" có sức hút rất mạnh.


 

Sóng sau xô sóng trước
Không lâu sau khi hiệu ứng vốn ngoại tạo nên sự tăng trưởng thần kỳ cho TTCK Việt, giới đầu tư nội địa đã nếm vị đắng khi vốn ngoại chảy ngược. Lần đầu vào cuối năm 2008 dưới tác động khủng khoảng kinh tế thế giới, một loạt quỹ đầu tư khu vực đã tháo chạy khỏi TTCK Việt Nam.
Không lâu sau đó là sự kiện quỹ đầu tư cổ phiếu của Indochina Capital trở thành mục tiêu bị tấn công của giới đầu cơ quốc tế rồi thông qua quyết định giải thể. Cùng chung số phận buồn này là một quỹ đầu tư cổ phiếu đến từ Hàn Quốc.
Giai đoạn sau năm 2008 là một khoảng thời gian khó khăn với các quỹ đầu tư thế hệ thứ hai. Hầu hết các quỹ đã giải ngân khi TTCK bùng nổ và mắc kẹt với lượng lớn cổ phiếu giá cao trong tổng danh mục.
Đa phần thua lỗ nặng nề. Các quỹ lớn hầu hết đều niêm yết chứng chỉ quỹ và giới đầu tư quốc tế dành cho chứng chỉ quỹ một mức chiết khấu trung bình từ 20 - 50% tùy thời điểm. NĐT góp vốn ban đầu vào quỹ thua lỗ kép. Hệ quả tất yếu là không quỹ ngoại nào gọi vốn thành công vài năm qua. Các gương mặt mới xuất hiện thưa thớt và mờ nhạt.
Cụm từ tái cơ cấu danh mục đầu tư xuất hiện thường trực khi các gương mặt cũ đăng ký mua bán cùng loại cổ phiếu, tranh thủ lướt trên từng con sóng nhỏ của thị trường.
Khi đa phần các quỹ đầu tư truyền thống tỏ ra thất thế thì thị trường chứng kiến sự lên ngôi của quỹ đầu tư chỉ số (ETF). 
Bắt đầu hiện diện từ nửa cuối năm 2010 cho đến nay, chính các tên tuổi như FTSE Vietnam Index, The Market Vector Vietnam trở nên quen thuộc với giới đầu tư nội địa, trở thành các định chế tài chính giữ nhịp cho thị trường. 
Ngoài hai tên tuổi đã biết, giới quản lý quỹ cho biết, còn có khoảng một chục quỹ đầu tư ở quy mô nhỏ hơn nhưng cũng thường xuyên giao dịch theo VN-Index. Với đặc điểm đầu tư mô phỏng theo Index nên các ETF là hình thức đầu tư có độ phân tán rủi ro khá tốt. 
Mặt khác, với cơ chế hoạt động là một quỹ mở, đặc thù của ETF khiến chứng chỉ quỹ theo sát giá trị tài sản ròng, khắc phục được yếu điểm của các quỹ đầu tư đóng truyền thống. Hiện tại, trong số các quỹ đại chúng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, hai quỹ ETF là ngoại lệ hiếm hoi khi có giá chứng chỉ quỹ cao hơn giá trị tài sản ròng. 
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của các ETF gần đây giảm sút thì giới đầu tư lại có lý do để kỳ vọng khi iShare - một công ty quản lý quỹ đầu tư danh tiếng xin thành lập một ETF mới để giải ngân vào thị trường cổ phiếu Việt Nam.


 

Thế hệ quỹ thứ 2: ở lại hay ra đi?
Nhìn lại tổng thể thời gian qua, có thể nhận thấy dòng chảy vốn ngoại vào Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố khách quan như tình hình kinh tế thế giới. Các chính sách thu hút dòng vốn FDI là điều kiện cần, nhưng không phải là điều kiện đủ để Việt Nam là điểm đến ưa thích của giới đầu tư quốc tế khi vẫn được xếp trong nhóm các thị trường cận biên. 
Các chỉ số định giá rẻ của chứng khoán thu hút dòng vốn cơ hội, chứ không phải dòng vốn đầu tư lâu dài. 
Các nhân tố chiều sâu mang sức hấp dẫn lâu dài với các định chế tài chính trung gian bao gồm: tăng trưởng kinh tế, sự ổn định của các yếu tố vĩ mô, quy mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường… Vì vậy, nhìn từ góc độ lịch sử, khó có thể kỳ vọng có sự đột biến về vốn ngoại thời gian tới.
Trong khi đó, với vòng đời 5 - 7 năm, thế hệ quỹ đầu tư thứ hai đã gần đến giai đoạn thoái vốn vào năm 2013 - 2014. Một số quỹ tới hạn sớm như KITMC, Tongkang hết hạn vào cuối năm ngoái đã chuyển đổi sang mô hình quỹ mở thành công.
Tuy nhiên, sự tái cơ cấu mang tính đơn lẻ cũng đã khiến TTCK chao đảo trong quý IV/2011. Thử thách trong vòng 6 - 18 tháng nữa với TTCK Việt Nam chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, không ít các ý kiến của giới chuyên gia nước ngoài lại tỏ ra bình tĩnh. 
Ông Fiachera Mac Cana, Trưởng bộ phận phân tích của CTCK HSC nhìn nhận thuần túy đây là một vấn đề mang tín kỹ thuật, vì khi một quỹ cũ kết thúc vòng đời thì sẽ có một quỹ mới sinh ra. Còn ông Marc Djandji, cựu Giám đốc Khối nghiên cứu, CTCK Bản Việt nhật xét, xu thế chuyển đổi quỹ đóng thành quỹ mở sẽ diễn ra phổ biến tại Việt Nam như các quỹ của Hàn Quốc.

 

Theo Giang Thanh

ĐTCK

 


Tổng hợp kết quả kinh doanh quý II/2012 ngày 19/07

Ngày đăng : 20/07/2012 - 12:13 PM

 

Tổng hợp kết quả kinh doanh quý II/2012 ngày 19/07

 

Có thêm gần 30 BCTC quý II/2012 của các doanh nghiệp niêm yết được cập nhật.

 

Đã đi được nửa chặng đường “lợi nhuận”

Trong khi LNST của DHA trong 6 tháng đầu năm 2012 đạt 11,2 tỷ đồng, bằng 1/2 so với cùng kỳ chỉ hoàn thành 29% kế hoạch lợi nhuận năm 2012.

Thì với mức tăng trưởng lợi nhuận cao trong quý II, lũy kế 6 tháng đầu năm, HOT đạt 82,8 tỷ đồng doanh thu thuần tăng 28,87% so với cùng kỳ; LNST đạt 17,33 tỷ đồng tăng 23,78% so với cùng kỳ 2011 và hoàn thành 60,4% kế hoạch LNST.

Lợi nhuận sau thuế quý 2/2012 của LGC là 3,5 tỷ đồng, còn một nửa so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng, lợi nhuận sau thuế của LGC đạt 4,7 tỷ đồng, giảm 71% so với 6 tháng đầu năm 2011 nhưng đã hoàn thành gần 70% kế hoạch lợi nhuận sau thuế.

VPK gây chú ý khi lãi sau thuế của riêng quý II đạt 12,51 tỷ đồng, tăng 112% so với cùng kỳ và 6 tháng lãi 23,87 tỷ đồng, tăng gần 60% vượt kế hoạch 32,61%.

Do đặt kế hoạch thấp nên kết thúc 6 tháng đầu năm 2012, PDC đạt 3,09 tỷ đồng LSNT tăng 34% so với cùng kỳ và hoàn thành vượt mức 34% kế hoạch Lợi nhuận cả năm 2012. Tất nhiên, nếu nhìn vào quy mô vốn 150 tỷ đồng thì mức kế hoạch và mức lợi nhuận đạt được không phải cao. ROE 6 tháng chỉ hơn 2%.

Gánh nặng chi phí tài chính giảm

Nhiều doanh nghiệp niêm yết công bố báo cáo tài chính quý II có khoản mục chi phí tài chính giảm so với cùng kỳ.

So với quý 2/2011, Chi phí tài chính và Doanh thu tài chính quý 2/2012 của HBD đều giảm lần lượt là 71% và 62% so với cùng kỳ năm ngoái. Lợi nhuận sau thuế quý 2/2012 của HBD là 882 triệu, bằng ½ so với cùng kỳ.

Mặc dù có chi phí tài chính giảm 42% so với cùng kỳ nhưng CMT chỉ đạt 0,28 tỷ đồng LNST và lỗ 1,9 tỷ đồng trong nửa đầu năm 2012.

Chi phí tài chính quý 2/2012 của TH1 cũng giảm 60% so với cùng kỳ nhờ khoản hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán trị giá 13 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng, lợi nhuận sau thuế của TH1 đạt 13,8 tỷ đồng, giảm 34% so với 6 tháng đầu năm 2011.

Các doanh nghiệp có lợi nhuận giảm sút

Do tỷ trọng giá vốn trên doanh thu thuần tăng mạnh và chi phí bán hàng tăng cao đã kéo lãi quý II/2012 của AGF xuống còn 10,87 tỷ đồng, chưa bằng ½ cùng kỳ năm 2011. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2012, AGF lãi 22,41 tỷ đồng, giảm 36,28% so với cùng kỳ năm 2011.

Sau khi trừ chi phí, HU1 đạt 4,87 tỷ đồng lãi thuần, do hoạt động khác lỗ 1,4 tỷ đồng nên LNST đạt 2,73 tỷ đồng giảm 81,67% so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2012, HU1 đạt 3,16 tỷ đồng LNST giảm 79% so với nửa đầu năm 2011.

Quý II/2012, HU3 cũng chỉ đạt 1,13 tỷ đồng LNST bằng 1/10 cùng kỳ năm 2011 tương ứng EPS đạt 113,35 đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2012, HU3 đạt 180,2 tỷ đồng doanh thu thuần giảm 36% so với cùng kỳ và 4,61 tỷ đồng LNST giảm 70% so với nửa đầu năm 2011.

LNST riêng quý II của SCR đạt 54,88 tỷ đồng, giảm 12% so với cùng kỳ. Lãi quý II chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận 6 tháng đầu năm (59,25 tỷ đồng).

Thanh Tú

Theo TTVN/HNX&HSX


S&P: Hoàng Anh Gia Lai gặp nhiều rủi ro trong 6 - 12 tháng tới

Ngày đăng : 20/07/2012 - 11:58 AM

 

S&P: Hoàng Anh Gia Lai gặp nhiều rủi ro trong 6 - 12 tháng tới

 

Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Standard & Poor's (S&P) vừa công bố báo cáo đánh giá về triển vọng của Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) trong thời gian tới.

 

Mức xếp hạng mà S&P dành cho Hoàng Anh Gia Lai là B- với triển vọng tiêu cực, không thay đổi so với đánh giá được đưa ra trong lần xếp hạng trước. 

 

Theo S&P, mức xếp hạng này phản ánh Hoàng Anh Gia Lai đang có thanh khoản yếu và bị ảnh hưởng nhiều bởi các rủi ro về kinh tế và luật pháp tại Việt Nam, Lào và Campuchia. Xếp hạng này cũng phản ánh dòng tiền có tính chu kỳ của Hoàng Anh Gia Lai và những rủi ro liên quan đến hoạt động chi tiêu lớn của công ty trong năm 2012. 

 

Tuy nhiên, cơ cấu chi phí vốn có lợi cho bất động sản và thương hiệu mạnh ở Việt Nam giúp Hoàng Anh Gia Lai cải thiện những yếu kém trên. S&P cũng đánh giá hoạt động kinh doanh của Hoàng Anh Gia Lai ở mức “dễ bị tổn thương” trước các rủi ro và rủi ro tài chính ở mức cao. 

 

S&P dự báo tình hình hoạt động và thanh khoản của Hoàng Anh Gia Lai vẫn sẽ ở mức yếu trong 6 đến 12 tháng tới. Các điều kiện đối với hoạt động kinh doanh bất động sản còn gặp nhiều khó khăn mặc dù NHNN đã hạ lãi suất để đối phó với suy giảm trong tăng trưởng. 

 

Đồng thời, chậm trễ trong việc chưa xin được giấy phép khởi động các mỏ khai thác quặng sắt ở Lào và Campuchia cũng khiến rủi ro tăng lên. Thêm vào đó, do công ty mở rộng hoạt động sang trồng cây cao su và các dự án thủy điện, chi phí vốn cũng sẽ tăng lên rõ rệt đồng thời rủi ro cũng tăng lên. 

 

Thu Hương

Theo TTVN/Reuters


HSBC tìm đối tác thoái sạch vốn tại Tập đoàn Bảo Việt

Ngày đăng : 18/07/2012 - 11:17 PM

 

HSBC tìm đối tác thoái sạch vốn tại Tập đoàn Bảo Việt

 

Hiện nay, Sumitomo Life, hãng bảo hiểm đến từ Nhật Bản, đang là đối tác tiềm năng nhất.

 

Theo Reuters, HSBC đang tìm đối tác để bán hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Ngân hàng lớn nhất châu Âu đang muốn thu hẹp hoạt động kinh doanh ngoài ngành trên toàn cầu và theo dự kiến sẽ thu về 400 triệu USD từ thương vụ này. 

 

HSBC đang có 18% cổ phần tại Tập đoàn Bảo Việt (BVH) – tập đoàn bảo hiểm lớn nhất Việt Nam. Hiện Sumitomo Life, hãng bảo hiểm đến từ Nhật Bản, đang là đối tác tiềm năng nhất.

 

Số cổ phần này có giá trị thị trường là 250 triệu USD. Tuy nhiên, HSBC dự tính sẽ bán được giá cao hơn nhờ vào vị thế của Bảo Việt trên thị trường và tiềm năng nâng tỷ lệ nắm giữ tại đây trong tương lai.

 

Sumitomo Life hiện là một trong 4 công ty bảo hiểm lớn nhất Nhật Bản. Cũng theo nguồn tin này, một số đối tác tiềm năng khác có thể xuất hiện. 

 

Kế hoạch thoái vốn tại Việt Nam của HSBC được đưa ra 4 tháng sau khi ngân hàng này bán bộ phận kinh doanh bảo hiểm cho AXA SA và Tập đoàn QBE Insurance Group Ltd với giá 914 triệu USD. Theo kế hoạch phục hồi 3 năm, HSBC phải thoái toàn bộ vốn tại các thị trường không tạo ra lợi nhuận. 

 

Thu Hương

Theo TTVN/Reuters



TS. Lê Xuân Nghĩa: “Cuối quý III, TTCK sẽ lên điểm”

Ngày đăng : 17/07/2012 - 12:44 PM

 

TS. Lê Xuân Nghĩa: “Cuối quý III, TTCK sẽ lên điểm”

 

Nhiều khả năng TTCK khởi sắc trở lại, bắt đầu từ cuối quý III/2012, bởi sẽ nhận được ít nhất 3 yếu tố hỗ trợ cơ bản.

 

“Với chuyển động của chính sách vĩ mô hiện tại, cũng như dự báo diễn biến từ nay đến cuối năm, nhiều khả năng, từ cuối quý III/2012, TTCK sẽ khởi sắc trở lại”, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia dự báo khi trao đổi với ĐTCK

Theo ông, đâu là tâm điểm chính sách có tác động lớn đến “sức khỏe” của các DN, cũng như tình hình kinh tế vĩ mô từ nay đến cuối năm?

Đó là tiến độ giải quyết nợ xấu của khối NHTM. Nếu như quá trình này sớm phát đi những tín hiệu khả quan, thì sẽ có tác động lan tỏa tích cực đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN, cũng như làm cho tình hình kinh tế vĩ mô trở nên lành mạnh hơn. Trong trường hợp ngược lại,

nền kinh tế tiếp tục đối mặt với một “căn bệnh” rất nguy hiểm đang tồn tại là suy kiệt vốn và đóng băng tín dụng, sản xuất đình đốn, sức cầu suy yếu.

Do nợ xấu hiện nay quá lớn, có thể lớn hơn con số trên 200.000 tỷ đồng mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa công bố, nên nếu không có sự can thiệp của Chính phủ bằng việc cho phép thành lập công ty mua bán nợ ngân hàng, thì không thể giải quyết hiệu quả nợ xấu. Vì quyền lợi của mình, các NHTM sẽ khó có thể tự giải quyết được khoản nợ xấu khổng lồ hiện tại. Ngay cả khi có sự chỉ đạo quyết liệt từ cơ quan quản lý, mà không thành lập công ty mua bán nợ ngân hàng, thì ước tính cũng phải mất 5 - 7 năm nữa, các NHTM mới giải quyết được nợ xấu. Khi đó, không chỉ DN, mà cả nền kinh tế cũng đã “chết”.

Đã có không ít ý kiến tỏ ý nghi ngờ về tính hiệu quả của giải pháp thành lập công ty mua bán nợ ngân hàng. Quan điểm của ông về giải pháp này là gì?

Đến thời điểm này, thế giới chỉ có 3 cách để xử lý nợ xấu: một là, Nhà nước bơm tiền cho ngân hàng, từ đó ngân hàng cho DN vay; hai là, thành lập công ty mua bán nợ ngân hàng; ba là, quốc hữu hóa các ngân hàng yếu kém.

Trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng điều kiện thực tế tại Việt Nam, tại cuộc họp Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia mới đây, chúng tôi kiến nghị Thủ tướng Chính phủ sử dụng biện pháp thành lập công ty mua bán nợ ngân hàng.

Việc chọn cách này hay hai cách còn lại sẽ khó tránh khỏi những ý kiến nghi ngờ rằng, ai được lợi, ai bị thiệt, liệu có nhóm lợi ích nào chi phối để trục lợi…? Tình trạng này cũng xảy ra tương tự tại Nhật Bản cách đây vài chục năm.

Do thời gian tranh cãi về lựa chọn giải pháp xử lý nợ xấu kéo dài gần 2 năm, nên Nhật Bản phải trả một cái giá rất đắt là nền kinh tế suốt 17 năm liền rơi vào tình trạng trì trệ. Bài học này đòi hỏi Việt Nam cần sớm cho phép thành lập công ty mua bán nợ ngân hàng, để xử lý nợ xấu hiệu quả, bởi đây là chuyện hệ trọng quốc gia, chứ không phải vì lợi ích của nhóm này hay nhóm khác.

Nhưng lấy đâu ra hàng trăm nghìn tỷ đồng để tài trợ vốn cho công ty này hoạt động như dự tính, thưa ông?

Con số hàng trăm nghìn tỷ đồng để đảm bảo vốn cho công ty này hoạt động mới chỉ nêu ra như vậy, chứ chưa có một tính toán cụ thể nào. Theo kiến nghị của Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia gửi Thủ tướng Chính phủ, thì cần khoảng 4 tỷ USD để giải quyết nợ xấu. Tuy nhiên, mức vốn ban đầu cho công ty mua bán nợ ngân hàng hoạt động chỉ cần khoảng 10.000 - 20.000 tỷ đồng.

Khoản tiền này được thu xếp từ nhiều nguồn, chứ không phải tất cả dồn lên Ngân sách Nhà nước. Ngoài phát hành trái phiếu do Chính phủ hoặc NHNN đứng ra bảo lãnh, có thể huy động vốn bằng cách NHNN bán tín phiếu cho các NHTM

Như phân tích của ông, thì bức tranh vĩ mô 6 tháng cuối năm không mấy lạc quan, do việc xử lý nợ xấu đang đối mặt với nhiều khó khăn?

Đúng là việc xử lý nợ xấu đang gặp không ít thách thức, nhưng kinh tế vĩ mô từ nay đến cuối năm có một số điểm sáng, nên sẽ hỗ trợ DN, cũng như TTCK.

Theo công bố của các NHTM, thì hiện có khoảng 67.000 tỷ đồng được họ trích lập dự phòng rủi ro. Nếu sử dụng hiệu quả số tiền này, cùng với sự nỗ lực giải quyết nợ xấu cả từ phía ngân hàng lẫn DN, thì “cục máu đông” trong hệ thống ngân hàng sẽ tan dần. Điều này có nghĩa là không phải đợi thành lập công ty mua bán nợ ra đời mới tiến hành xử lý nợ xấu.

Thực tế, từ kết quả bước đầu của quá trình tái cơ cấu nợ, trong đó có giải quyết nợ xấu, mà các NHTM đang tiếp tục giảm thêm lãi suất, trong đó giảm cả các khoản cho vay cũ. Điều này đang góp phần dần khơi thông dòng vốn cho DN. Theo tính toán, nếu từ nay đến cuối năm, tín dụng tăng trưởng đạt 1%/tháng, thì GDP tăng trưởng khoảng 4,9 - 5,1% và lạm phát của 5 tháng sau đó sẽ dưới 0,5%/tháng.

Tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư đang được đẩy mạnh, nên sẽ dần cải thiện tổng cầu của nền kinh tế, qua đó kích thích gia tăng tiêu dùng, sản xuất. Theo ước tính, từ nay đến cuối năm, nguồn vốn FDI sẽ giải ngân trung bình 18.000 - 20.000 tỷ đồng/tháng. Tốc độ giải ngân nguồn vốn đầu tư công cũng đang tăng trở lại từ tháng 6 đến nay. Nếu nỗ lực giải ngân đạt kế hoạch mà Quốc hội phê chuẩn, thì tổng vốn giải ngân trung bình sẽ tăng gấp đôi so với 6 tháng đầu năm, ước đạt 24.000 tỷ đồng/tháng.

Những tín hiệu tích cực trên sẽ hỗ trợ TTCK. Ông có nhận định gì về TTCK từ nay đến cuối năm? 

Nhiều khả năng TTCK khởi sắc trở lại, bắt đầu từ cuối quý III/2012, bởi sẽ nhận được ít nhất 3 yếu tố hỗ trợ cơ bản.

Thứ nhất, sau khi khá sôi động trong quý I/2012, trong quý II vừa qua, TTCK liên tục giảm điểm và xu hướng này vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Điều này phản ánh khá sát diễn biến vĩ mô, nhất là kết quả kinh doanh quý II/2012 của các DN không mấy khả quan, bởi vẫn khó tiếp cận vốn, hàng tồn kho chưa giảm. Điều này tạo ra mặt bằng giá cổ phiếu trở nên hấp dẫn hơn.

Thứ hai, giá cổ phiếu hấp dẫn sẽ được cộng hưởng bởi bối cảnh vĩ mô thuận lợi hơn trong thời gian tới: đầu tư công tiếp tục tăng, DN đang tiếp cận được vốn với lãi suất thấp hơn… Điều này sẽ hỗ trợ TTCK khởi sắc trở lại.

Thứ ba, kinh tế thế giới, nhất là các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, các nước EU… đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Đáng chú ý, tổng giá trị của dòng vốn đầu tư toàn cầu không hề suy giảm, ước đạt 1.500 - 1.700 tỷ USD trong năm nay. Sau khi có xu hướng chảy mạnh vào thị trường Mỹ trong những tháng đầu năm, thì hiện dòng vốn này có xu hướng dịch chuyển khá mạnh sang các thị trường châu Á, với việc khởi động nhiều dự án lớn. Kinh tế thế giới bớt bất ổn hơn sẽ là điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam dần lấy lại đà tăng trưởng bền vững, qua đó hỗ trợ cho DN và TTCK khỏe lên.

Theo Hữu Hòe

ĐTCK


 

Tin mới cập nhật