Ngày đăng :
28/12/2011 - 4:45 PM
Hoạt động cốt lõi của một ngân hàng thương mại là cho vay, nhưng tính đến ngày 30.9.2011 Sacombank đã có khoảng 25.000 tỉ đồng đầu tư chứng khoán, chiếm 16% tổng tài sản.
Sức khỏe đang suy yếu, Sacombank khó lòng cố thủ nếu xuất hiện những ý đồ thâu tóm.
Giữa năm 2011, thị trường nổi lên tin đồn Sacombank có nguy cơ bị thâu tóm. Câu chuyện càng đáng ngờ hơn khi Sacombank liên tục mua gom cổ phiếu STB như đang cố thủ. Tuy sự việc chưa ngã ngũ, nhưng nếu có một cuộc chuyển giao quyền lực như lời đồn đại thì khả năng Sacombank chiếm thế thượng phong là rất thấp.
Sức đề kháng giảm
Dù nói là có lãi, nhưng tình hình kinh doanh của Sacombank có rất nhiều vấn đề. Hoạt động cốt lõi của một ngân hàng thương mại là cho vay, nhưng tính đến ngày 30.9.2011, theo báo cáo hợp nhất, Sacombank đã có khoảng 25.000 tỉ đồng đầu tư chứng khoán (trái phiếu và cổ phiếu), chiếm 16% tổng tài sản.
Công ty Chứng khoán Sacombank - SBS cũng lỗ lũy kế 9 tháng gần 258 tỉ đồng.
Không chỉ có chứng khoán, mảng kinh doanh bất động sản của Sacombank cũng lao đao theo thị trường. Tính lũy kế từ đầu năm đến hết quý III, lợi nhuận của Công ty Địa ốc Sài Gòn Thương Tín - Sacomreal là khoảng 82 tỉ, giảm đến 83,67% so với cùng kỳ năm ngoái. Đối với mảng sản xuất và kinh doanh vàng miếng, sau khi có quy định chỉ SJC mới được sản xuất vàng miếng, Sacombank không còn được phép sản xuất vàng mang thương hiệu SBJ nữa. Vì vậy, trước mắt, hệ thống máy móc sản xuất vàng miếng trị giá hơn 30 tỉ đồng của Sacombank sẽ chưa được sử dụng.
Điều đáng nói là tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của Sacombank đã có từ trước đó. Nếu xét về quy mô vốn (10.000 tỉ đồng) và phạm vi hoạt động thì ACB là đối thủ trực tiếp của Sacombank. Khác với Sacombank, ACB luôn mang lại lợi nhuận cao hơn cho nhà đầu tư. Năm 2009, tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của ACB là 21,78%, trong khi Sacombank chỉ 15,8%. Con số tương ứng cho năm 2010 là ACB 20,5%, Sacombank 16,74%. Năm 2011, ROE của ACB vẫn cao hơn Sacombank 6 điểm phần trăm.
Với tình hình kinh doanh như vậy, cộng với sự đi xuống chung của cổ phiếu ngân hàng, giá cổ phiếu của Sacombank giảm là điều dễ hiểu. Tháng 8 năm nay, Dragon Capital chính thức thoái 6,66% vốn tại Sacombank, bán ra gần 61 triệu cổ phiếu STB sau 10 năm nắm giữ. Trong khi đó, từ tháng 4.2010 đến tháng 6.2011, giá cổ phiếu STB của Sacombank được giao dịch quanh mức dưới giá trị sổ sách là 14.000 đồng. Với mức giá này, STB trở nên quá dễ mua đối với những nhà đầu tư có nhiều tiền.
Đê mỏng không ngăn được lũ
Khi nhận ra cổ phiếu STB được gom mua từ năm 2010, Sacombank đã có động thái phòng thủ. Tháng 11 năm nay, Sacombank đăng ký mua vào 100 triệu cổ phiếu STB. Liên tiếp các công ty Thành Thành Công, Đặng Huỳnh, Đường Ninh Hòa, Bourbon Tây Ninh cũng đăng ký mua vào dồn dập cổ phiếu này. Chủ tịch hội đồng quản trị các công ty này là bà Huỳnh Bích Ngọc, vợ ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Sacombank.
Trước nguy cơ bị thâu tóm, một vài thành viên hội đồng quản trị của Sacombank cũng tìm cách tăng lượng cổ phần nắm giữ của mình. Một trong số đó là vụ mua vào hơn 30 triệu cổ phiếu STB của ông Chang Hen Jui, chồng bà Huỳnh Quế Hà, Phó Chủ tịch thứ nhất Sacombank.
Mục đích của việc kinh doanh, đầu tư là tạo ra lợi nhuận. Khi Sacombank làm ăn sa sút, điều đầu tiên mà một nhà đầu tư bình thường nghĩ đến là để tiền của họ nơi khác sinh lợi nhiều hơn. Vì thế mới có chuyện cổ phiếu STB được bán ra với khối lượng lớn. Nội lực của Sacombank ít nhiều đã bị hao mòn. Một nhóm nhỏ nhân sự chủ chốt dù cố gắng mấy cũng khó bắt kịp lực lượng đối lập, vốn đã kiên trì mua cổ phiếu STB từ năm ngoái.
Giữa lúc dư luận cho rằng Sacombank đang đồng tâm hiệp lực chống thế lực thâu tóm thì ngày 19.12, Sacomreal tuyên bố rút toàn bộ vốn đang nắm giữ tại Sacombank với hơn 22 triệu cổ phiếu. Sau Công ty Chứng khoán SBS, Sacomreal là công ty con thứ hai thoái vốn tại ngân hàng mẹ Sacombank. Tại sao công ty con giờ đây không còn muốn nắm giữ cổ phiếu của công ty mẹ? Ông Đặng Hồng Anh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Sacomreal, từ chối trả lời câu hỏi của NCĐT về vấn đề này. Trước đó, vào tháng 7, bà Bích Ngọc (vợ ông thành) và bà Ức My (con ông Thành) đã bán cổ phiếu STB do mình nắm giữ. Lý giải cho sự việc trên, ông Thành cho biết số cổ phiếu này được bán cho Thành Thành Công, chuyển từ sở hữu cá nhân sang pháp nhân để quản lý tốt hơn. Vậy trong trường hợp này, cổ phiếu STB đang được Công ty Sacomreal do con trai ông làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị, sở hữu với tư cách pháp nhân, tại sao lại được bán đi?
Ngay sau sự việc Sacomreal thoái vốn, thị trường lại rộ lên thông tin Credit Suisse mua cổ phần của Ngân hàng Sacombank. Sự tham gia của Credit Suisse vào cơ cấu cổ đông của Sacombank vào lúc này là không bình thường. Hiện tại cổ đông nước ngoài đã nắm giữ 26% cổ phần Sacombank, nghĩa là chỉ còn 4% tỉ lệ vốn góp dành cho cổ đông nước ngoài, trong khi Sacombank có ý định bán cho Credit Suisse 15% cổ phần. Sacombank sẽ phải cấu trúc lại cơ cấu cổ đông mới có chỗ cho Credit Suisse. Hiện nay, tin đồn này vẫn chưa được xác thực, khi Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đặng Văn Thành phủ nhận, còn Tổng Giám đốc Trần Xuân Huy lại trả lời Đài BBC rằng: việc bán cổ phần “có thể được tiến hành dần dần cho đến khi cổ phần được bán ra tới tối đa mà cả hai bên đồng ý”.
Điều này cũng dấy lên những đồn đoán về việc Sacombank đang khủng hoảng về cơ cấu, và Credit Suisse, trước đây đại diện các chủ nợ của Vinashin, là ngân hàng trung gian dàn xếp quyền lợi của các bên. Hơn 1 tháng trở lại đây cũng có thông tin ACB đang tăng tỉ lệ sở hữu cổ phần Sacombank và hiện nay đã nắm giữ 60%. Phóng viên NCĐT đã liên hệ với ông Đỗ Minh Toàn, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB và được trả lời: “Đây là tin đồn thất thiệt của một số cá nhân nhằm đẩy giá cổ phiếu lên. Về phía ACB, chúng tôi đã đóng danh mục 2 năm nay và nếu có đầu tư chúng tôi cũng không đầu tư cổ phiếu ngân hàng.”
Ngành ngân hàng lúc này cần một vài tên tuổi đủ mạnh để vượt qua thời kỳ khó khăn. Đó là chưa kể đến tham vọng phát triển những ngân hàng mang tầm khu vực. Vì vậy, sáp nhập và hợp nhất không chỉ là chuyện của các ngân hàng nhỏ
Theo Quân Phan
NCĐT
|
Ngày đăng :
28/12/2011 - 10:33 AM
Khó mua ngoại tệ từ ngân hàng nên nhiều người có nhu cầu phải tìm đến thị trường tự do. Người dân thường bán USD cho các đầu mối thu mua ngoại tệ ngoài ngân hàng.
Dù các cơ quan chức năng đã tịch thu và xử phạt nặng một số vụ giao dịch ngoại tệ trái phép nhưng những ngày cuối năm 2011, trên thị trường vẫn diễn ra cảnh vô tư mua bán ngoại tệ.
Giao dịch sôi động
Ngày 26-12, tại tiệm vàng H.T - bên hông chợ Bến Thành (TPHCM) - luôn có khoảng 5-10 khách hàng thường trực mua bán USD, đô la Úc, đô la Singapore, euro…, không khí giao dịch khá sôi động. Nhân viên và hai máy đếm tiền của tiệm liên tục hoạt động để giao nhận ngoại tệ cho khách hàng. Tại đây, chúng tôi ghi nhận một người nước ngoài đi cùng với một thanh niên người Việt mua 3.500 USD. “Muốn mua 2.000 USD giá bao nhiêu?” - tôi hỏi. “Hai mốt ba hai (tức giá bán ra 21.320 đồng/USD)” - chủ tiệm cho biết.
Tương tự, các tiệm vàng ở khu vực chợ Tân Định, Bà Chiểu (TPHCM) cũng vô tư mua bán USD. Còn tại sân bay Tân Sơn Nhất, thấy chúng tôi đang tìm hiểu tỉ giá tại một đại lý thu đổi ngoại tệ, lập tức có 4 phụ nữ tìm đến sẵn sàng thu mua USD, tuy nhiên mức giá thu mua của những người này thấp hơn rất nhiều so với giá của các tiệm vàng.
Do không quen biết các đầu mối thu mua ngoại tệ nên anh T.V.N (phường 1, quận Phú Nhuận - TPHCM) phải nhờ bạn bè giới thiệu một chủ tiệm vàng để bán 10.000 USD. Chủ tiệm vàng này cho biết sau khi hai bên chốt giá sẽ có nhân viên của tiệm đến nhà anh N. để giao VNĐ, nhận USD.
Chủ tiệm còn cho biết thêm: Để “né” sự kiểm tra của các cơ quan chức năng, bước đầu, các tiệm vàng thường từ chối giao dịch số lượng lớn đối với khách hàng lạ nhưng sau đó gợi ý với khách hàng để lại địa chỉ, thống nhất giá mua- bán và sẽ đến nhà giao nhận “hàng” vào buổi tối, hoặc chủ tiệm vàng sẽ cùng với bên mua USD đến ngân hàng (NH) – nơi chủ tiệm vàng sẽ rút ra số ngoại tệ đang gửi tiết kiệm - rồi thực hiện giao dịch.
Doanh nghiệp mua rồi hợp thức hóa
Một số đầu mối ngoại tệ cho biết họ thu gom USD rồi bán lại cho các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa vào những ngày giáp Tết Nguyên đán. Riêng các doanh nghiệp đến hạn trả nợ vay NH cũng thường mua USD từ các tiệm vàng rồi hợp thức hóa bằng cách bán số ngoại tệ đó cho NH, sau đó NH làm thủ tục bán lại cho doanh nghiệp. Khi đó, số ngoại tệ mà doanh nghiệp trả nợ vay NH mới hợp pháp.
Thực tế cho thấy cá nhân có nhu cầu chính đáng rất khó mua được ngoại tệ từ NH nên họ thường tìm đến thị trường tự do để mua USD là điều dễ hiểu. Trong khi đó, do người bán USD cho NH có phần thiệt thòi bởi giá thu mua của NH thấp hơn giá thu mua của các tiệm vàng từ 200-300 đồng/USD nên vì lợi ích kinh tế, họ bán USD cho các đầu mối ngoài NH.
Theo Thy Thơ
NLĐ
|
Ngày đăng :
28/12/2011 - 10:27 AM
Nhu cầu đối với trái phiếu kho bạc Mỹ đã lên tới mức kỷ lục trong năm nay, và đây cũng là một trong những loại tài sản đem lại mức lợi nhuận hấp dẫn nhất cho các nhà đầu tư.
Theo tin từ Bloomberg, năm nay, Bộ Tài chính Mỹ đã bán đấu giá thành công số trái phiếu trị giá 2.135 tỷ USD. Trong đó, lượng cầu nhận được cao gấp 3,04 lần lượng cung. Kể từ khi Washington bắt đầu công bố số liệu này vào năm 1992 dưới thời Tổng thống George H. W. Bush, chưa khi nào trái phiếu Mỹ nhận được lực cầu lớn đến vậy.
Đặc biệt, trong đợt bán 30 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn 4 tuần vào ngày 20/12 vừa qua, Bộ Tài chính Mỹ nhận được mức cầu cao gấp 9,07 lần nguồn cung, mặc dù chỉ trả lãi suất 0% cho số trái phiếu này.
Mặc dù hãng định mức tín nhiệm Standard & Poor’s đã tước điểm tín nhiệm AAA của Mỹ hồi đầu tháng 8 vừa qua, trái phiếu kho bạc kỳ hạn từ 10 năm trở lên của nước này vẫn đem lại cho các nhà đầu tư mức nhuận suất hấp dẫn 25,6% trong năm nay.
Cuộc khủng hoảng nợ công lan rộng ở châu Âu và sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu thúc đẩy các nhà đầu tư đổ vốn vào các tài sản an toàn của Mỹ, trong đó có trái phiếu kho bạc. Nhờ đó, Chính phủ Mỹ có thể vay vốn với mức chi phí thấp để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Nếu tính theo phần trăm so với GDP, thì chi phí vay vốn của Washington năm nay còn thấp hơn cả khi nước này có thặng dư ngân sách trong lần gần đây nhất.
Bloomberg cho biết, tiền trả lãi của Chính phủ Mỹ trong năm tài khóa 2011 kết thúc vào ngày 30/9 chỉ chiếm 3% GDP, giảm so với mức 4% vào năm 1999. Trong thời gian Chính phủ Mỹ có thặng dư ngân sách từ 1998-2001, lực cầu trái phiếu kho bạc nước này chỉ cao gấp 2,26 lần khối lượng trái phiếu được chào bán.
Giới phân tích dự báo, trong năm tới, nhu cầu đối với trái phiếu kho bạc Mỹ sẽ còn mạnh, vì tài sản này là một trong số rất ít những tài sản mà giới đầu tư quốc tế còn xem là an toàn trong bối cảnh hiện nay. Đây là một tín hiệu cho thấy Tổng thống Barack Obama có thể sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc lấp chỗ trống cho khoản bội chi trên 1 nghìn tỷ USD trong năm thứ tư liên tục vào năm 2012.
Lần gần đây nhất trái phiếu kho bạc Mỹ dài hạn đem lại mức lợi nhuận lớn như năm nay là vào năm 1995, khi tài sản này tăng giá 30,7%.
Tính chung, trái phiếu kho bạc Mỹ năm nay đem về mức lợi nhuận 8,9% cho các nhà đầu tư, so với mức giảm 8% của chỉ số Thomson Reuters/Jefferies CRB Index - thước đo giá của các loại hàng hóa cơ bản, và mức tăng 0,6% của chỉ số Standard&Poor’s. Theo số liệu của ngân hàng Bank of America, giá trái phiếu chính phủ và các loại chứng khoán đảm bảo bằng nợ địa ốc trên phạm vi toàn cầu năm nay tăng 5,8%, còn trái phiếu doanh nghiệp tăng 4,3%.
Lực cầu cao đối với nợ Mỹ đồng nghĩa với sức mạnh cho đồng USD. Năm nay đang trên đà trở thành năm tăng giá thứ hai liên tục đối với đồng bạc xanh, với mức tăng khoảng 1,2%. Năm ngoái, đồng tiền này tăng giá 1,5% so với một rổ tiền tệ mạnh khác trong chỉ số Dollar Index của IntercontinentalExchange Inc. Đồng Yên Nhật là đồng tiền duy nhất có mức tăng giá cao hơn USD trong năm nay, với mức tăng 4,1%.
“Nước Mỹ đang hưởng lợi từ môi trường bất ổn toàn cầu”, ông Scott Graham, người đứng đầu bộ phận giao dịch trái phiếu chính phủ thuộc ngân hàng Bank of Montreal, nhận định. Tính đến tuần trước, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm là 2,02%, giảm nhiều so với mức 3,3% vào cuối năm 2010.
Nợ chính phủ Mỹ hiện đã vượt mức 15.000 tỷ USD. Trong 3 năm tài khóa từ tháng 10/2008-9/2011, Washington đã bội chi tổng cộng 4.000 tỷ USD. Trong năm tài khóa 2012, mức thâm hụt dự báo sẽ là 1.100 tỷ USD, giảm so với mức 1.300 tỷ USD vào năm 2011.
Theo dự báo của Bloomberg, kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2,1% trong năm 2012 và 2,5% trong năm 2013. Trong khi đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự báo mức tăng trưởng 2,7% cho năm 2012 và 3,25% cho năm 2013.
Theo Kiều Oanh
VnEconomy
|
Ngày đăng :
28/12/2011 - 9:54 AM
Trong bối cảnh bức tranh kinh tế của năm 2012 được các chuyên gia kinh tế phác thảo không mấy sáng sủa, TS Alan Phan, Chủ tịch Quỹ Đầu tư Viasa, khiến người ta ngỡ ngàng với khẳng định: Đây là cơ hội tuyệt vời để kiếm tiền!
Trong thực tế kinh doanh, đồng tiền luôn thay đổi và dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác và khủng hoảng còn là cơ hội để người ta kiếm tiền. Mỗi ngày có tới 400-500 tỷ USD luân chuyển trên thị trường thế giới. Thị trường không thiếu vốn, Việt Nam cũng không thiếu vốn… Cách thức lý luận mà TS Alan Phan đưa ra khiến người nghe liên tưởng đến lưu ý của giáo sư John Snown - nguyên Bộ trưởng Bộ Ngân khố Hoa Kỳ, trong lần diễn thuyết tại Việt Nam hồi tháng 11: "Đồng tiền chỉ đến với nơi nào được đối xử tốt". Và lẽ dĩ nhiên, muốn đồng tiền đến với doanh nghiệp mình, người chủ doanh nghiệp phải biết cách đối xử với đồng tiền khôn ngoan ấy!
Bạc tóc vì không biết rót vốn vào đâu
Có một người bạn đang chịu sức ép về việc phải giải ngân 100 triệu USD vào các doanh nghiệp Việt Nam đã tìm đến TS Alan Phan để nhờ cung cấp thông tin. Sau 9 tháng gặp lại, TS Alan Phan vô cùng ngạc nhiên khi thấy người bạn của mình đã bạc cả tóc, hỏi ra mới biết, ông không thể tìm được đối tác nào hội đủ các điều kiện để rót vốn. Nhiệm vụ bất khả thi khiến ông này có nguy cơ bị sa thải. Câu chuyện được TS Alan Phan dẫn ra khi vấn đề thiếu vốn triền miên của các doanh nghiệp Việt Nam được xới lên. "Chúng ta không thiếu vốn mà chỉ thiếu những ý tưởng kinh doanh, những sản phẩm đặc thù và thiếu sự minh bạch trong quản trị doanh nghiệp", TS Alan Phan nhấn mạnh. Đồng quan điểm này, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, một người cũng có nhiều năm kinh nghiệm làm việc tại thị trường Mỹ như ông Alan Phan cho rằng, rất ít doanh nghiệp Việt Nam đảm bảo được yếu tố công khai, minh bạch trong hoạt động, vậy nên rất khó để họ có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp một cách hiệu quả. "Nhiều chủ doanh nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu công bố thông tin không chính xác", ông Thành nói.
Nhìn ở góc độ khác, chưa bao giờ kết quả kinh doanh của giới doanh nghiệp Việt Nam ảm đạm như hiện nay. Đặc biệt, tỷ lệ doanh nghiệp thực sự phải tạm dừng hoạt động hay giải thể đang ngày một gia tăng, dẫu chưa cơ quan nào đưa ra được một con số thống kê đáng tin cậy. Tình hình sẽ còn xấu hơn nếu kinh tế khu vực và thế giới xấu đi trong năm 2012 và ngân hàng không mở hầu bao cho số đông doanh nghiệp. Vậy bài toán vốn này cần phải giải như thế nào?
Gõ cửa ngân hàng
Đã từng là Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rồi Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, bà Dương Thu Hương hẳn không xa lạ với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Bà dẫn ra con số: tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên vốn vay của doanh nghiệp Việt Nam hiện ở mức 1/20, cá biệt còn lên đến 1/30. "Điều này cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam hiện lệ thuộc rất nhiều vào vốn vay bên ngoài, chủ yếu là từ ngân hàng", bà Hương nhận xét. Theo những thông điệp chính sách phát đi từ Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bà Hương cho rằng, có thể tin tưởng doanh nghiệp sẽ có cơ hội vay được vốn với điều kiện tốt hơn trong năm 2012. Tuy nhiên, ông Phạm Quang Dũng, Phó TGĐ ngân hàng Vietcombank, lại nhìn nhận một cách thực tế hơn khi khẳng định: điều đó chỉ đúng với những doanh nghiệp mạnh khỏe, khách hàng lâu năm của ngân hàng! Điều này có thể hiểu được trong bối cảnh hiện nay, theo cách diễn đạt của TS Lê Xuân Nghĩa là "đến các ngân hàng lớn cũng còn run. Bản thân các ngân hàng cũng đang phải lo toan với những vấn đề của chính mình thì việc tăng trưởng tín dụng đối với khối sản xuất hay phi sản xuất cũng đều phải dựa vào những cân nhắc rất thận trọng và từ cả những chỉ dấu chính sách".
Tuy có ý kiến phản biện lại nhận xét của ông Bùi Kiến Thành về việc các ngân hàng thương mại hiện nay chỉ cho vay dựa vào tài sản thế chấp, bà Dương Thu Hương cũng phải thừa nhận một thực tế rằng: việc cho vay theo dòng tiền, cho vay theo dự án đã được các ngân hàng triển khai lâu nay, nhưng chưa nhiều và chưa hiệu quả. Trong khi trò chuyện riêng với Doanh Nhân, bà cho rằng, với cơ chế hiện nay, các ngân hàng chưa đủ năng lực để thẩm định dự án hay nhìn nhận dài hơn, xa hơn cho một vòng đời dự án cũng như kiểm soát cho vay theo dự án để quyết định cho vay. Yếu tố cốt lõi vẫn là sự thiếu minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp tạo nên mối e ngại lớn của các ngân hàng, bà Hương nói. Như vậy, quả bóng một lần nữa lại được chuyển sang sân của doanh nghiệp, bởi xét đến cùng, để có thể vay được vốn đã đến lúc doanh nghiệp không nên chỉ nghĩ đến việc đem tài sản ra thế chấp mà cần phải thay đổi cung cách tiếp cận nguồn vốn đầu tư.
Kênh nào ra vốn đầu tư?
Thông thường các doanh nghiệp tìm vốn ở các nguồn quen thuộc như các cổ đông hiện hữu, bạn bè, người thân trong gia đình, các đối tác hiện có, ngân hàng và một số nguồn không chính thống khác. Một mặt chỉ ra thói quen huy động vốn này của doanh nghiệp Việt Nam, mặt khác TS Alan Phan đưa ra khuyến nghị về vai trò của các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm vốn của các doanh nghiệp. Đó là các quỹ đầu tư, đối tác chiến lược, các nhà đầu tư cá nhân, các khách hàng, nhà cung cấp… Trong đó, theo ông Alan Phan, các doanh nghiệp nên chú ý đến việc bắt tay với các công ty bảo hiểm, các công ty cho thuê tài sản và thậm chí cả hình thức thuê ngoài (outsourcing)… Với những doanh nghiệp đủ sức và đủ minh bạch, lời khuyên của ông chính là việc niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ - một thị trường tài chính lớn nhất thế giới với đủ mọi tầm cỡ của doanh nghiệp. Có thể lời khuyên của ông Alan Phan chưa thật thích hợp với đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nhưng việc khuyến nghị nên nghĩ xa hơn, bớt lệ thuộc vào ngân hàng, tự nghĩ cách tìm kiếm nguồn vốn ở những thị trường bên ngoài như: Đông Nam Á, Trung Quốc, Mỹ hay châu Âu là điều mà doanh nghiệp cũng nên cân nhắc khi chuẩn bị đón năm 2012 – một năm mà kịch bản kinh tế được dự báo là rất xấu. Muốn vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần vươn đến những chuẩn mực hoạt động cao hơn.
Ông Thomas LanYi, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn Mekong Capital chia sẻ kinh nghiệm, trước khi quyết định đầu tư, họ xem xét rất kỹ về doanh nghiệp, không chỉ nhìn doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại mà nhìn xa hơn trong chiến lược trung và dài hạn của chính doanh nghiệp đó. Thậm chí, mối quan tâm có thể rất cụ thể như: văn hóa doanh nghiệp; cơ chế đưa ra quyết định của doanh nghiệp; doanh nghiệp có tham vọng tham gia các "cuộc chơi" lớn không… Nếu là một doanh nghiệp qui mô gia đình khi phát triển thì năng lực quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp có theo kịp yêu cầu không; cơ chế chia sẻ thành công với các đối tác thế nào?… Điều mà ông Thomas băn khoăn là các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp khó khăn trong việc thuê CEO chất lượng cao, do vậy họ sẽ gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng và chuẩn mực hoạt động. Theo ý kiến của ông Bùi Kiến Thành, để gọi được vốn các doanh nghiệp cần gia tăng kỹ năng đi vay theo dự án, phải trả lời được câu hỏi về dòng tiền của dự án.
Tiếp tục khuyến nghị đối với doanh nghiệp, TS Alan Phan đưa ra 5 yếu tố cần thiết khi vay vốn: Sáng tạo - kiên nhẫn - cách thức bán hàng - hiểu mình (lợi thế cạnh tranh, ban quản trị) và hiểu nhu cầu nhà đầu tư. Và trước mỗi cuộc tiếp xúc vay vốn, doanh nghiệp cần đưa ra được danh sách các nguồn vốn tiềm năng; làm một phân tích SWOT; kế hoạch kinh doanh mới; báo cáo và dự phòng tài chính cũng như phải đưa ra được đề nghị về mức hoàn trả (ROI)… Chỉ khi chuẩn bị được kỹ càng như vậy, câu chuyện vay vốn mới không trở thành nỗi ám ảnh của doanh nghiệp. "Nói như Tôn Tử, kết quả của trận chiến được quyết định trước khi phát súng đầu tiên khai hỏa", TS Alan Phan kết luận một cách hình ảnh và cũng đầy ẩn ý.
Theo Thương Vũ
DDDN
|
Ngày đăng :
28/12/2011 - 9:35 AM
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có kế hoạch thoái vốn khỏi Ngân hàng An Bình và Công ty Tài chính Điện lực. Hiện Ngân hàng An Bình và Công ty Tài chính Điện lực đều hoạt động có lãi.
EVN đầu tư vào Ngân hàng An Bình 114,9 tỷ đồng; vào Công ty Tài chính Điện lực 1.000 tỷ đồng. Hiện nay, EVN đầu tư ngoài ngành vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản 2.108 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 4,22% trên tổng vốn đầu tư; trong đó, đầu tư vào các doanh nghiệp bất động sản 79,5 tỷ đồng.
Đáng chú ý là khoản tiền cọc hơn 700 tỷ đồng do FPT chuyển cho Thương vụ mua cổ phần của EVN Telecom (mua bán giữa hai đơn vị sau đó bất thành do EVN Telecom không đáp ứng được tỷ lệ bán theo cam kết với FPT) do EVN quản lý. Gần 1 năm trôi qua, FPT vẫn chưa đòi được EVN khoản tiền này.
Theo ĐTCK
|