Sóng ngầm USD

Ngày đăng : 29/06/2012 - 10:03 AM

 

 

Thị trường ngoại hối đang có dấu hiệu “nóng” trở lại khi nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) bắt đầu có động thái gom ngoại tệ (USD) nhằm tính lại bài toán lợi nhuận.

 

Nhà băng ngoại muốn gom USD

Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, từ đầu năm 2011 đến nay NHNN đã mua vào 9 tỉ USD, nghĩa là đã bơm ra thị trường 180.000 tỉ đồng. Động thái bơm tiền đồng - hút ngoại tệ này đã làm cho thanh khoản các NHTM tốt hơn thời điểm quý 4/2011 và LS VND liên tiếp giảm trong thời gian qua, tuy nhiên có thể sẽ tạo thành những cơn địa chấn hâm nóng tỷ giá, khiến thị trường ngoại tệ nổi sóng trong thời gian tới.

Bởi trước 11.6, với trần LS tiền gửi khá cao (14%/năm, 13%/năm, và 12%/năm), tỷ giá được NHNN tuyên bố biến động không quá 3%, nhiều TCTD (phần lớn là NH nước ngoài) bán USD cho NHNN, lấy VND để kinh doanh trên thị trường liên NH nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng 2 tuần trở lại đây, khi NHNN đột ngột giảm trần LS huy động còn 9%/năm (ngắn và trung hạn), lập tức các nhà “buôn” USD tìm cách vay VND, mua lại ngoại tệ đã bán nhằm mục đích tăng cường găm giữ. Một chuyên gia tài chính cho biết đây là nguyên nhân trong những ngày vừa qua LS trên thị trường liên NH bỗng nhiên nổi sóng. Cụ thể, ngày 27.6, LS kỳ hạn 1 tuần ở mức 7,5-8%/năm và LS kỳ hạn 1 tháng 8,5-9%/năm. Trước đó vài ngày, LS liên NH kỳ hạn trên 1 tháng thậm chí còn vượt qua mức trần 9%/năm, điển hình ngày 21.6 với lãi suất 9,5%/năm. “LS liên NH mà giảm sâu và đứng lâu ở mức chỉ 3-4%/năm như thời gian qua thì các nhà giữ USD sẽ tính toán lại bài toán kinh doanh sao cho hiệu quả, không giữ VND để kinh doanh mà chuyển sang mua USD”, chuyên gia này nói.

Theo tổng giám đốc một NH cổ phần lớn tại TP.HCM, NHNN lo ngại các TCTD nước ngoài quay ra mua lại USD do LS VND trên thị trường 2 quá thấp, làm cho nguồn cung USD khan hiếm. Đương nhiên, lúc đó NHNN lại phải đẩy LS VND lên cao để đảm bảo VND giữ giá trị so với USD, dẫn đến VND trở nên khan hiếm. “Đó là bài toán khó và là quy luật bất thành văn trên thị trường tiền tệ”, vị tổng giám đốc này nói.

Áp lực dự trữ ngoại hối

Không chỉ trên thị trường liên NH, động thái mua gom USD của các TCTD, khiến NHNN phải căn chỉnh lại cả lãi suất trên thị trường mở (OMO). Thời gian qua, việc để LS tái cấp vốn quá cao trên thị trường này (hơn 10%/năm) đã khiến các NH không muốn vay, mà chạy sang tìm nguồn vốn vay trên thị trường liên NH. Đó chính là lý do khiến LS trên liên NH dậy sóng và ngày 27.6, NHNN buộc phải điều chỉnh xuống LS trên OMO xuống thấp nhất kể từ tháng 11/2010, còn 8%/năm, để cân đối nguồn cung trên cả 2 thị trường.

Tuy nhiên, áp lực đối với dự trữ ngoại hối và tỷ giá đang khá lớn. Tại một cuộc trao đổi gần đây, ông Phạm Hồng Hải, Phó tổng giám đốc NH HSBC Việt Nam, cho rằng trong quý 3, tỷ giá sẽ vẫn nằm ở mức hiện tại, tức chỉ xoay quanh 20.850 đồng/USD, và sẽ tăng lại vào quý 4, khi mà nhu cầu mua ngoại tệ nhập hàng bán tết, trả nợ vay tăng cao. Đồng thời sẽ có một luồng dịch chuyển tiền đồng sang USD do LS tiền đồng giảm xuống. Một vấn đề cũng cần quan tâm, theo ông Hải đó là nguồn ngoại tệ từ nhà đầu tư nước ngoài, điều này phải xem xét theo tình hình kinh tế thế giới, nếu khủng hoảng nợ châu Âu chưa chấm dứt, nhiều nhà đầu tư sẽ phải rút tiền về để bù vào các khoản lỗ, lúc đó chắc chắn tỷ giá sẽ chịu ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, vài tháng tới khoảng 64.000 tỉ đồng tín phiếu do NHNN phát hành sẽ đáo hạn. Điều này có nghĩa lượng tiền trên sẽ sớm trở về với các NH thương mại và nếu LS VND thấp, khả năng họ quay sang mua USD rất dễ xảy ra. Trong khi đó, nguồn cung USD đang có dấu hiệu thiếu hụt, khi mà thời gian qua lượng vốn giải ngân FDI, ODA và nguồn vốn gián tiếp (FII) vào Việt Nam quá ít ỏi. Cùng với đó, LS tiền gửi USD chỉ 1-2%/năm, khiến cho nguồn kiều hối không vào mạnh như mọi năm, kiều bào cũng không còn xu hướng vay USD ở nước ngoài với LS thấp để gửi về Việt Nam kinh doanh, và gửi tiết kiệm. Tại TP.HCM, con số này tính đến tháng 6 chỉ đạt 1,9 tỉ USD, thấp hơn rất nhiều so với mọi năm.

Những dấu hiệu trên cho thấy, nếu điều hành chính sách không khéo léo, rất có thể thị trường ngoại hối sẽ dậy sóng, USD sẽ tăng giá so với VND. 

Theo Anh Vũ
Thanh niên

 

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

AMC quốc gia phải nằm ngoài hệ thống ngân hàng thương mại

Ngày đăng : 28/06/2012 - 9:59 AM

 

 

Đó là quan điểm của TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng trong cuộc phỏng vấn với ĐTCK.

 

NHNN vừa phát đi thông điệp sẽ thành lập AMC, trực thuộc NHNN với số vốn 100.000 tỷ đồng để mua lại nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM). Ông có bình luận gì?



Theo tôi, Công ty Mua bán nợ xấu (AMC) quốc gia được đặt dưới sự chủ trì của NHNN là hoàn toàn hợp lý. Vì NHNN nắm vững tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) bởi thường xuyên thanh tra, kiểm tra, kiểm toán…



Nhưng, tôi cho rằng, về tổ chức, AMC không nên là một đơn vị của NHNN mà chỉ nên là một công ty nằm dưới sự quản lý, chỉ đạo của NHNN. Lý do là nếu AMC nằm trong hệ thống của NHNN thì e rằng NHNN sẽ bị phân tán nguồn nhân lực, suy giảm về năng lực kiểm tra, thanh tra cũng như là quản lý hệ thống các NHTM.



Trên thực tế, nguồn nhân lực của AMC sẽ là rất lớn, cần rất nhiều chuyên viên, chuyên gia, cán bộ, nhân viên có khả năng phục vụ…



Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Việt Nam đã có Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN (DATC), trực thuộc Bộ Tài chính nên việc có thêm một AMC thuộc NHNN là không cần thiết. Quan điểm của ông ra sao?



Chức năng của DATC chủ yếu là mua nợ của các DN, xử lý nợ giữa các DN với nhau, giúp các DN tái cơ cấu, chứ không chuyên về mua nợ của các ngân hàng. Trong khi đó, nợ của các ngân hàng rất phức tạp, bao gồm tín chấp và thế chấp, đòi hỏi việc phân tích các báo cáo tài chính, thẩm định các tài sản thế chấp và dòng tiền ra vào của các DN đi vay... Do đó, việc mua nợ của các ngân hàng thực tế được tiến hành ở tầm quốc gia rất phức tạp và có qui mô rất lớn và DATC sẽ không kham nổi. Tuy nhiên, nếu Chính phủ quyết định dùng DATC cho công tác mua nợ có tầm quốc gia này, thì DATC cần phải được tăng cường về nhân lực và vốn.



Vậy, các AMC đang nằm trong các ngân hàng thương mại thì nên tính sao?



Hiện tại, có khoảng 18 AMC trên toàn quốc là của các ngân hàng. Phần lớn ngân hàng đẩy những khoản nợ xấu của ngân hàng mình vào trong AMC, để từ đó, đẩy qua các AMC khác, làm mất dấu nợ xấu, đẩy nợ xấu ra khỏi bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Tuy nhiên, trong đó, cũng có những giao dịch thực. Dẫu sao những AMC của các ngân hàng cũng có kinh nghiệm về mua bán xử lý nợ, nên trong tương lai, các AMC này có thể tham gia hệ thống mua bán nợ ngân hàng trên tầm quốc gia, tuy nhiên, phải đặt dưới sự chủ trì của NHNN.



Vậy, nếu AMC (quốc gia) nằm dưới sự chủ trì của NHNN có vấn đề gì cần phải quan ngại?



Có một vài quan ngại. Công ty mua bán nợ có mục đích là giải quyết vấn đề nợ trên phạm vi quốc gia và nó phải phục vụ cho quyền lợi của quốc gia. Nếu các NHTM bán nợ mà công ty mua nợ cũng nằm trong hệ thống ngân hàng thì sẽ xảy ra xung đột về lợi ích và có thể công ty đó cũng không thực hiện đúng theo mục đích của nó là giải quyết vấn đề nợ vì quyền lợi của đất nước. Công ty mua nợ là người mua, bán nợ là các NHTM, thành ra người mua và người bán không thể nằm cùng một phía được mà phải tách biệt ra. Chính vì thế mà nó phải nằm ở ngoài hệ thống NHTM.



Để mua 14 tỷ USD nợ xấu, với tỷ lệ chiết khấu 50% thì AMC cần phải có khoảng 7 tỷ USD



Để AMC vận hành có kết quả, theo ông cần hội tụ những yếu tố gì?



Thứ nhất, AMC phải có đội ngũ nhân lực có kiến thức và kinh nghiệm về nợ, về tín dụng và ngân hàng. Đây chính là điều kiện tiên quyết. Dĩ nhiên, chúng ta cũng nên mời gọi các công ty kiểm toán độc lập quốc tế, các công ty tư vấn quốc tế tham dự chương trình này.



Thứ hai, đội ngũ nhân lực này phải đặt quyền lợi của quốc gia lên trên hết, chứ không phải là quyền lợi của công ty hay nhóm lợi ích nào, bởi trong vấn đề xử lý nợ này sẽ đưa đến vấn đề hết sức gay go là cái giá phải trả cho những món nợ. Có những món nợ mà chiết khấu của nó thấp, chỉ 5 - 10% hoặc có những món nợ tương đối có thể thu hồi được. Có những món nợ có thể mất vốn thì chiết khấu của nó có thể xuống đến 80 - 90%, thậm chí 95%, thì trong tất cả những khâu trong tiến trình thương lượng thì vấn đề định giá món nợ trên tỷ lệ chiết khấu là vấn đề vô cùng quan trọng. Những người làm việc trong công ty nợ phải là những người thật sự nhiệt tâm phục vụ cho quyền lợi của đất nước, chứ không phải cho nhóm lợi ích nào, vì thế, sự liêm chính của họ là điều tối quan trọng.



Thứ ba, những công ty này phải có nguồn vốn rất lớn. Theo thống kê, tổng dư nợ hiện tại của các NHTM ước khoảng 2,7 triệu tỷ đồng (tức khoảng 135 tỷ USD), trong đó, nợ xấu chiếm tỷ lệ khoảng 10%, nghĩa là khoảng 14 tỷ USD. Để mua 14 tỷ USD nợ xấu (danh nghĩa), với tỷ lệ chiết khấu dự kiến là 50% thì AMC cần phải có khoảng 7 tỷ USD. Đây chính là điều kiện tiên quyết để công ty xử lý nợ này vận hành tốt. Hiện tại, NHNN đã đưa ra đề xuất là AMC cần phải có 100.000 tỷ đồng (hay 5 tỷ USD). Theo tôi, lượng tiền này có thể không đủ để xử lý các khoản nợ xấu của các NHTM hiện tại, nhưng ít nhất, chúng ta cũng đã nhìn thấy một kế hoạch cụ thể và đáng kể của NHNN.



Với kinh nghiệm nhiều năm làm việc ở nước ngoài, theo ông, những vấn đề khó khăn nhất trong việc vận hành AMC là gì ?



Các ngân hàng có thể sẽ đẩy nợ xấu nhất trước cho công ty này và giữ lại một số khoản nợ nào đó mà ngân hàng cảm thấy chưa đến nỗi mất hy vọng sẽ thu hồi được nợ, vì bán sẽ phải chiết khấu. Hay ngân hàng có những món nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp và tìm cách thâu tóm tài sản này bằng cách đẩy lãi suất lên cao để con nợ không còn cách nào khác là cho ngân hàng siết tài sản thế chấp này để khấu trừ vào nợ. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng có thể không muốn bán hết tài sản nợ xấu, thành ra Chính phủ phải có hành lang pháp lý liên quan đến việc tổ chức, vận hành và giám sát AMC, quy chế về những loại nợ nào cần phải bán.



Bên cạnh đó, AMC phải thực hiện được mục tiêu tối hậu là làm sạch sẽ ‘cơ thể’ của các ngân hàng, giúp các ngân hàng tập trung vào vấn đề kinh doanh, phục vụ hữu hiệu nền kinh tế.



Theo Hồng Dung
ĐTCK

 

 


Lãi suất giảm: Ngân hàng kiếm lợi nhuận ở đâu?

Ngày đăng : 27/06/2012 - 9:25 AM

 

 

Giá của lãi suất chính là giá của rủi ro. Rủi ro chưa hết, nên giá của lãi suất cho vay ra chưa thể giảm sâu dù lãi suất điều hành đã giảm.

Vay gói tín dụng "ưu đãi": Không dễ

Trong phương án tái cơ cấu của một ngân hàng (sở hữu nhà nước chiếm đa số) có việc "đề xuất Chính phủ cho xóa nợ bằng nguồn ngân sách nhà nước đối với các khoản nợ xấu phát sinh không có tài sản bảo đảm, không có khả năng thu hồi do thực hiện cho vay theo chỉ đạo hoặc chủ trương, chính sách của Chính phủ".

Bên cạnh đó, ngân hàng dự kiến xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro; xem xét bán lại các khoản nợ xấu cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC); bán các khoản nợ xấu cho các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng, công ty mua bán nợ tư nhân và công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại; xem xét việc chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay.

Lãnh đạo ngân hàng cũng đưa ra đề xuất rà soát các dự án bất động sản vay ngân hàng sắp hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng chưa bán được để kiến nghị Chính phủ xem xét việc mua lại phục vụ cho an sinh xã hội và hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời chuyển nguồn vốn đó cho ngân hàng để ngân hàng thu hồi nợ đã cho vay.

Ngoài ra, trong nợ xấu của nhà băng này, một khoản nợ của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) khoảng 4.000 tỷ đồng hiện vẫn chờ Chính phủ xem xét việc "xử lý riêng" trong vòng 3-5 năm. Một phần nợ khác cũng của Vinashin được khoanh và cơ cấu, một phần sẽ được đánh giá lại và có kế hoạch thu hồi, trích lập và xử lý rủi ro trong vòng 3-5 năm tính từ 2011.

Phó giám đốc một công ty tư nhân chuyên chế biến thép, inox cao cấp xuất khẩu đang có quan hệ tín dụng với ba ngân hàng, trong đó có ngân hàng trên, cho biết: "Tuy ngân hàng vừa công bố gói tín dụng lớn hỗ trợ doanh nghiệp, nhưng đến giờ này, các gói lãi suất ưu đãi được các ngân hàng quảng cáo vẫn chỉ mang tính chất PR. Chúng tôi muốn đáo hạn hợp đồng vay vốn để có lãi suất thấp hơn ngân hàng bảo chưa được vì ngân hàng chưa huy động được vốn rẻ, tuần này mới giảm lãi suất huy động thì 1-2 tháng nữa mới có giá vốn điều chỉnh chứ bây giờ mà cho vay luôn giá thấp thì họ lỗ".

Thậm chí, ông nói rằng, doanh nghiệp mình đang có hạn mức tín dụng 150.000 USD tại ngân hàng trên, các hợp đồng xuất khẩu tuy có giảm nhưng nhà máy vẫn duy trì 2/3 công suất, quan hệ tín dụng theo vòng vay - trả vẫn diễn ra bình thường nhưng giá trị vay mỗi lần đáo hạn lại bị "cấu" đi một ít.

"Trước đây tôi trả vào ngân hàng 100.000 USD được vay ra tương đương thì nay vay ra chỉ được 80.000 USD. Ngân hàng nói bây giờ các điều kiện cho vay của nhà nước khó khăn hơn", vị này cho biết.

Giá của lãi suất chính là giá của rủi ro. Nếu như kinh tế học lý giải rằng khả năng thu nhập trong tương lai quyết định thái độ tiêu dùng hiện tại ví dụ trên minh chứng cho sự lo lắng của các ngân hàng. Ngân hàng đang không dám vung tay cho vay vì họ biết họ còn "khối u" nợ xấu.

Theo khảo sát, trần lãi suất trần huy động xuống đến 9% nhưng trên thị trường sự phân hóa giữa các nhóm doanh nghiệp được hưởng những nhóm lãi suất khác nhau vẫn rất xa. Các gói kích thích lãi suất thấp được các ngân hàng tung ra với lãi suất thấp 11% đến 13%/năm (Agribank, BIDV, MB, Vietcombank... ) nhưng được giải ngân rất chậm, chủ yếu mới đến một số doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng và được ngân hàng tiếp tục vay hay đáo hạn các hợp đồng cũ (vốn có lãi suất cao hơn). Các hợp đồng cho vay mới, với các doanh nghiệp mới gần như chưa có.

Với đa số doanh nghiệp còn lại, lãi suất cho vay trên thị trường được các ngân hàng chào đối với các khoản vay thông thường dưới một năm vẫn trên 17%/năm. Thu nhập lãi cận biên (NIM) giữa 17% và 9% vẫn cao tới 8 điểm phần trăm, trong khi NIM ở một nền kinh tế bình thường chỉ là 4-5 điểm.

Khoảng cách phi lý đó nói lên sự trục trặc của thị trường. Tất nhiên với sự giảm của lãi suất, chi phí vốn của doanh nghiệp thời gian tới được dự báo sẽ giảm, đặc biệt ở một số doanh nghiệp nhưng quá trình hấp thụ vốn sẽ cần thêm thời gian, tối thiểu 1-2 tháng, và vẫn sẽ không thể bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.

Ngân hàng: "Khối u" chưa được cắt

Quay trở lại ngân hàng trên, với xuất phát điểm là ngân hàng quốc doanh đặc thù, dư nợ cho vay 20 khách hàng lớn nhất so với tổng dư nợ của ngân hàng đang là 17%, trong đó ngành xây dựng có tỷ lệ dư nợ lớn nhất, thường xuyên duy trì ở mức trên 14%. Tỷ lệ nợ nhóm 2 của ngân hàng này từ lâu vẫn duy trì trên 10% trong khi khuyến nghị của tổ chức định giá tín nhiệm với ngân hàng trong nhiều năm liền là cần giảm tỷ lệ nợ nhóm này xuống dưới 10%.

Vị lãnh đạo ngân hàng cho biết, ở ngân hàng của mình, kiểm soát chất lượng tín dụng đang là khâu được chú trọng hàng đầu rồi mới đến tăng trưởng tín dụng.

"Định kỳ mỗi tháng, hội sở chính có báo cáo gửi các chi nhánh danh sách các doanh nghiệp, ngành có tiềm ẩn rủi ro, chất lượng tín dụng ngành giảm sút để các chi nhánh dựa trên đó hạn chế không cho vay mới, kiểm soát chặt chẽ và đốc thúc thu nợ, lãi các khách hàng còn dư nợ", ông nói và thêm rằng "lãnh đạo ngân hàng cũng đã thu hẹp thẩm quyền phán quyết với các chi nhánh có nợ xấu và nợ nhóm 2 cao. Trong một số trường hợp chi nhánh không được tăng trưởng tín dụng mà chỉ tập trung thu nợ".

Mặc dù Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng phát biểu trên truyền thông rằng sẽ duy trì mức lãi suất trần huy động 9% từ nay tới cuối năm, song vị lãnh đạo ngân hàng này cho rằng nếu doanh nghiệp và ngân hàng không có chuyển biến tích cực sớm, cơ quan quản lý khó có thể không giảm tiếp mặt bằng lãi suất. Và bên cạnh việc dùng các biện pháp hành chính để đưa mặt bằng lãi suất xuống thấp thì trọng tâm của Chính phủ trong các tháng cuối năm là xử lý khối nợ xấu trong các ngân hàng.

Ông cũng cho hay, bóng tối của chất lượng tín dụng suy yếu vẫn đang dìm lợi nhuận các ngân hàng xuống. Ví dụ, năm 2011 do phải trích lập dự phòng rủi ro ở mức rất lớn, trên 4.000 tỷ nên cho dù chênh lệch thu chi của ngân hàng tăng trưởng ở mức rất cao, trên 45% nhưng lợi nhuận trước thuế của ngân hàng vẫn giảm khoảng 10%. Nhìn lại tình hình kinh doanh hơn 5 tháng qua, ông lắc đầu: "Câu hỏi lớn nhất bây giờ không chỉ của doanh nghiệp mà còn của các ngân hàng là tìm lợi nhuận ở đâu?"

Theo Hồng Phúc
Vietnamnet

 

 


Lợi lớn

Ngày đăng : 26/06/2012 - 8:55 AM

 

Liên tục những ngày qua, nhiều NH đưa ra mức lãi vay sát trần huy động 9%. Nhìn qua thì có vẻ như, việc "ứ thanh khoản" khiến NH phải chấp nhận cho vay vốn rẻ nhưng thực chất, họ vẫn có lợi lớn.

 

Việc hạ trần huy động xuống 9% của NHNN là để thực hiện mục tiêu giảm lãi vay cho các lĩnh vực ưu tiên xuống 12%.

 

Bởi theo tính toán, chênh lệch đầu ra - đầu vào 3% đủ để các NH có lãi. Nhưng trên thực tế, lãi suất huy động có nhiều mức tùy kỳ hạn gửi trong đó thấp nhất là 2%. Vì vậy, nếu tính bình quân, lãi suất tiền gửi chỉ rơi vào khoảng 6 - 8% tùy NH. Cộng biên 3%, chúng ta hoàn toàn có trần lãi vay khoảng 9 - 11%/năm chứ không phải mức 12% như NHNN đưa ra. Cũng có nghĩa là, lãi suất ưu đãi của NHNN thực chất vẫn cao và hoàn toàn có thể giảm xuống thấp hơn. Và việc các NH hạ lãi vay sát với trần huy động, vẫn mang lại lợi lớn cho họ.

 

Vấn đề này không phải mới, cũng đã được đặt ra khi NHNN tiến hành hạ trần huy động những lần trước. Nhưng bất chấp các ý kiến góp ý, NHNN vẫn luôn "chọn" mức trần huy động thay vì lấy lãi suất huy động bình quân để tính trần cho vay các lĩnh vực ưu tiên.

 

Việc các NH tự hạ lãi suất cho vay thấp hơn "trần" vay mà NHNN đưa ra cũng cho thấy, chính sách đã luôn lạc hậu so với diễn biến thị trường.

 

Chính sách luôn tạo cơ hội cho các NH kiếm lợi đã diễn ra rất nhiều lần. Đơn cử như mục tiêu lớn nhất là giảm lãi vay nhưng NHNN lại áp trần huy động; tăng trưởng tín dụng âm thì mở rộng dư địa cho vay để các NH có thêm đất "dụng võ"; nợ xấu tăng thì tạo cơ chế giãn nợ, giảm nợ, đảo nợ; nợ xấu cao đến mức rủi ro thì đề xuất mua luôn cả nợ xấu; giảm trần huy động thì mở cơ chế thỏa thuận lãi suất tiết kiệm kỳ hạn dài... Có thể thấy rất rõ, chính sách luôn bảo vệ các NH, bảo vệ nguồn lợi nhuận của họ. Còn cơ chế thật sự, mục tiêu thật sự, có lẽ chỉ mang tính đối phó mà thôi. Nên trong một cuộc họp về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp gần đây, có ý kiến chua chát nói rằng, "điểm sáng" nhất trong bức tranh kinh tế những tháng đầu năm cũng như mấy năm nay là lợi nhuận của ngành NH. Sự thật đau lòng này, nghịch lý doanh nghiệp phá sản, khó khăn, sản xuất đình đốn, kinh tế rơi vào giảm phát mà ngân hàng vẫn lợi lớn này là nhờ những chính sách tạo lợi thế cho hệ thống NH của cơ quan quản lý như nói trên.

 

Doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vốn rẻ; tiền vay, gửi giữa các NH vẫn rất cao... Có nghĩa là vốn vẫn không thể chảy vào sản xuất như mục tiêu của Chính phủ? Nếu trước đó, chúng ta vẫn tránh dùng từ "giảm phát" bất chấp doanh nghiệp phá sản hàng loạt và hàng tồn kho tăng cao thì giờ đây, giảm phát đã được phản ánh cụ thể khi CPI tháng 6 đã chính thức giảm sau 39 tháng tăng liên tục. Giảm phát còn khó "trị" hơn lạm phát. Nền kinh tế đang đối mặt với những hệ lụy lớn từ việc điều hành chính sách tiền tệ kiểu này.

 

Theo Nguyên Khanh

thanh niên

 


Lãi suất liên ngân hàng tăng “bất thường”

Ngày đăng : 25/06/2012 - 6:19 PM

 

 

Ngày 25/6, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng được các ngân hàng chào cho nhau vay tăng từ 2-3%, riêng lãi suất 1 tháng đã lên tới 9%/năm.

Cụ thể, theo dữ liệu của Reuters, ngày 25/6, lãi suất qua đêm liên ngân hàng đã lên 7%/năm, từ mức 5%/năm cuối tuần trước; lãi suất kỳ hạn 1 tuần lên 7,5-8%/năm, từ mức 5%/năm; lãi suất kỳ hạn 1 tháng lên 8,5-9%/năm, từ mức 6%/năm.

Mức tăng từ 2-3%/năm so với tuần trước được xem là bước nhảy mạnh nhất của lãi suất liên ngân hàng, kể từ đợt điều chỉnh lãi suất huy động hôm 11/6.

Như vậy, mức lãi suất tới 9%/năm kỳ hạn 1 tháng của thị trường liên ngân hàng đã vượt qua mức lãi suất huy động từ 1-9 tháng của nhiều ngân hàng thương mại.

Việc lãi suất liên ngân hàng tăng hôm 25/6 diễn ra trong bối cảnh nhiều ngân hàng đã hạ lãi suất kỳ hạn dài xuống. Đồng thời các mức lãi suất từ 1 tháng đến dưới 12 tháng cũng không có biến động đáng chú ý.

Được biết, trước khi trần lãi suất huy động về 9%/năm hôm 11/6, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thấp kỷ lục khi có giao dịch ghi nhận mức lãi suất 1%/năm. Tuy nhiên, ngay trong ngày đầu trần lãi suất huy động về 9%/năm, lãi suất liên ngân hàng đã tăng mạnh, trong đó lãi suất qua đêm tăng gấp đôi lên 3%/năm. Sau đó, lãi suất liên ngân hàng dao động trong khoảng từ 5-8%/năm, trước khi có bước tăng như hôm 25/6.

Mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 21/2012/TT-NHNN quy định lãi suất cho vay, mua, bán giấy tờ có giá sẽ do các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự thỏa thuận. Tuy nhiên, trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định lãi suất cho vay liên ngân hàng để các tổ chức thực hiện. Tuy vậy, Thông tư 21 không nêu rõ khi nào thì “hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường”.

Trong một diễn biến đáng chú ý khác, giao dịch trên thị trường mở (OMO) hôm 25/6 tiếp tục đóng băng khi không có giao dịch thành công. Nhiều phiên qua, giao dịch OMO không có giao dịch hoặc đạt mức thấp, trong khi hoạt động phát hành tín phiếu cũng không đáng kể.

Theo Duy Cường
Vneconomy

 


Cần giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế

Ngày đăng : 21/06/2012 - 9:47 AM

 

 

“Các chính sách tiền tệ cần tập trong vào việc bình ổn giá cả, ổn định tiền tệ và giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế”.

 

Đó là khuyến nghị của ông Louis Taylor, Tổng giám đốc Ngân hàng TNHH một thành viên Standard Chartered (Việt Nam) khi trao đổi với ĐTCK về những trọng tâm của chính sách tiền tệ vào nửa sau năm 2012.

Theo ông, những lý do nào khiến DN Việt Nam phàn nàn là khó tiếp cận tín dụng ngân hàng?

Quyết định cho một DN vay hay không dựa vào sự hiểu biết của ngân hàng về DN đó. Ngoài ra, một phần vấn đề ở đây là sự minh bạch tài chính của DN. Trong bối cảnh môi trường kinh tế khó khăn, rất khó để nhận định phần nào của những khó khăn trong các hoạt động kinh doanh là do DN tự gây ra và phần nào là do ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế chung. Do đó, tại thời điểm đi xuống của chu kỳ kinh tế, việc đánh giá chất lượng tín dụng các DN sẽ luôn khó hơn tại những thời điểm kinh tế đi lên.

Lãi suất cho vay có phải là nguyên nhân chính khiến DN khó tiếp cận vốn, thưa ông?

Tuy lãi suất cho vay áp dụng cho các DN không thực sự hấp dẫn tại thời điểm này, nhưng từ trước đến nay, lãi suất thực luôn ở mức khá thấp. Lãi suất thực đang tăng với lạm phát đang trên đà giảm và lãi suất chính sách đang ở mức 9%/năm, lãi suất thực đang là 3%/năm. Tôi nghĩ rằng, nhu cầu tín dụng giảm do chi phí vay mượn cao. Trong thời điểm kinh tế đang đi xuống, nợ xấu tăng cao là chuyện phổ biến và trên thực tế, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam đang tăng. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho các ngân hàng lo ngại và không muốn cho khách hàng vay, mà thay vào đó, dùng số tiền này để cho vay một ngân hàng khác. Điều này đặt các DN muốn tiếp cận nguồn vốn vào hoàn cảnh khó khăn.

Nhiều ý kiến cho rằng, NHNN nên giảm lãi suất nhanh hơn, ông nghĩ sao?

Tốc độ và biên độ giảm lãi suất phải dựa trên bối cảnh chung của nền kinh tế. Việc cắt giảm lãi suất sẽ phải dựa vào cơ chế thị trường. Chúng ta không thể nói đơn thuần là NHNN nên giảm lãi suất, mà phải nói rằng, NHNN nên giảm lãi suất vì một số yếu tố cụ thể nào đó, ví dụ như lạm phát đang giảm nhanh hơn dự kiến. Do vậy, NHNN nên đưa ra các quyết định cắt giảm lãi suất nhanh hơn dự kiến. NHNN nên hướng tới việc tạo dựng sự ổn định phù hợp với bối cảnh kinh tế trong từng thời điểm.

Điểm gì cần lưu ý nếu NHNN quyết định giảm nhanh lãi suất, thưa ông?

Tôi nghĩ, nếu giảm lãi suất nhanh hơn cơ chế thị trường thì sẽ gây ra vấn đề. Chúng ta chỉ có thể đưa ra những nhận định dựa trên cơ sở bối cảnh kinh tế thị trường. Nếu lạm phát giảm 4% mà lãi suất chỉ giảm 1% thì sẽ là không đủ, nhưng nếu lạm phát tăng 1% mà lãi suất lại giảm 1% thì lại là quá nhiều. Đây chỉ là những con số mang tính chất minh hoạ, nhưng vấn đề mấu chốt ở đây là NHNN đã chính thức phát biểu sẽ “điều chỉnh lãi suất dựa trên các điều kiện thị trường”. NHNN đã rất thành công trong việc giảm lạm phát, ổn định tiền tệ và cho tới nay, 3 quyết định cắt giảm lãi suất đều nhận được những phản hồi tốt từ thị trường. Chúng ta chưa nhìn thấy tiền đồng bị mất giá hay những vấn đề kinh tế tương tự. Do đó, trên thực tế, NHNN đang điều hành rất tốt các chính sách của mình.

Theo ông, đâu là những vấn đề mấu chốt mà chính sách tiền tệ cần phải đặt trọng tâm trong nửa sau của năm 2012?

Như thường lệ, vấn đề mấu chốt ở đây là các chính sách tiền tệ cần phải tập trung vào việc bình ổn giá cả, ổn định tiền tệ và giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế. Chính phủ nên hướng mục tiêu tăng trưởng tín dụng vào đầu tư hơn là vào tiêu dùng. Tôi nghĩ, đây là lĩnh vực mà Chính phủ nên tập trung vào và trên thực tế, đây cũng là lĩnh vực mà Chính phủ đã tuyên bố là sẽ hướng tới.

Về tái cấu trúc ngành ngân hàng, theo ông, Việt Nam có nên đẩy nhanh tiến độ?

Kế hoạch tái cấu trúc ngành ngân hàng mà Chính phủ đưa ra là rất quan trọng, bởi “sức khỏe” của nền kinh tế tương lai sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch này. Sáp nhập các ngân hàng chỉ là một phần nhỏ của cả quá trình tái cấu trúc. Về kế hoạch tái cấu trúc, cái chúng ta muốn thấy không chỉ dừng lại ở các quyết định sáp nhập, mà là một kế hoạch cụ thể từ Chính phủ về việc làm thế nào để thực hiện các chiến lược đặt ra. Chiến lược này tốt, nhưng sẽ không thích hợp nếu không được thực thi.

 

Do đó, chúng tôi muốn Chính phủ đưa ra một kế hoạch hành động cụ thể về khối lượng công việc mà các đối tượng liên quan phải thực hiện, ai chịu trách nhiệm làm gì và thời hạn cụ thể cho từng đầu mục. Làm như vậy sẽ củng cố được niềm tin của thị trường vào quá trình tái cấu trúc. Quá trình tái cấu trúc nếu diễn ra theo đúng lộ trình, người dân sẽ nhận ra và ghi nhận những nỗ lực của Chính phủ. Còn lại, nếu như quá trình tái cấu trúc diễn ra quá chậm chạp, thì có nghĩa là hệ thống ngân hàng hiện tại (chưa tái cấu trúc) sẽ tồn tại lâu hơn. Điều này có thể làm giảm niềm tin của thị trường.

Theo Hồng Dung
ĐTCK

 

 


 

Tin mới cập nhật