Lãi suất giảm: Ngân hàng kiếm lợi nhuận ở đâu?

Ngày đăng : 27/06/2012 - 9:25 AM

 

 

Giá của lãi suất chính là giá của rủi ro. Rủi ro chưa hết, nên giá của lãi suất cho vay ra chưa thể giảm sâu dù lãi suất điều hành đã giảm.

Vay gói tín dụng "ưu đãi": Không dễ

Trong phương án tái cơ cấu của một ngân hàng (sở hữu nhà nước chiếm đa số) có việc "đề xuất Chính phủ cho xóa nợ bằng nguồn ngân sách nhà nước đối với các khoản nợ xấu phát sinh không có tài sản bảo đảm, không có khả năng thu hồi do thực hiện cho vay theo chỉ đạo hoặc chủ trương, chính sách của Chính phủ".

Bên cạnh đó, ngân hàng dự kiến xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro; xem xét bán lại các khoản nợ xấu cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC); bán các khoản nợ xấu cho các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng, công ty mua bán nợ tư nhân và công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại; xem xét việc chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay.

Lãnh đạo ngân hàng cũng đưa ra đề xuất rà soát các dự án bất động sản vay ngân hàng sắp hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng chưa bán được để kiến nghị Chính phủ xem xét việc mua lại phục vụ cho an sinh xã hội và hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời chuyển nguồn vốn đó cho ngân hàng để ngân hàng thu hồi nợ đã cho vay.

Ngoài ra, trong nợ xấu của nhà băng này, một khoản nợ của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) khoảng 4.000 tỷ đồng hiện vẫn chờ Chính phủ xem xét việc "xử lý riêng" trong vòng 3-5 năm. Một phần nợ khác cũng của Vinashin được khoanh và cơ cấu, một phần sẽ được đánh giá lại và có kế hoạch thu hồi, trích lập và xử lý rủi ro trong vòng 3-5 năm tính từ 2011.

Phó giám đốc một công ty tư nhân chuyên chế biến thép, inox cao cấp xuất khẩu đang có quan hệ tín dụng với ba ngân hàng, trong đó có ngân hàng trên, cho biết: "Tuy ngân hàng vừa công bố gói tín dụng lớn hỗ trợ doanh nghiệp, nhưng đến giờ này, các gói lãi suất ưu đãi được các ngân hàng quảng cáo vẫn chỉ mang tính chất PR. Chúng tôi muốn đáo hạn hợp đồng vay vốn để có lãi suất thấp hơn ngân hàng bảo chưa được vì ngân hàng chưa huy động được vốn rẻ, tuần này mới giảm lãi suất huy động thì 1-2 tháng nữa mới có giá vốn điều chỉnh chứ bây giờ mà cho vay luôn giá thấp thì họ lỗ".

Thậm chí, ông nói rằng, doanh nghiệp mình đang có hạn mức tín dụng 150.000 USD tại ngân hàng trên, các hợp đồng xuất khẩu tuy có giảm nhưng nhà máy vẫn duy trì 2/3 công suất, quan hệ tín dụng theo vòng vay - trả vẫn diễn ra bình thường nhưng giá trị vay mỗi lần đáo hạn lại bị "cấu" đi một ít.

"Trước đây tôi trả vào ngân hàng 100.000 USD được vay ra tương đương thì nay vay ra chỉ được 80.000 USD. Ngân hàng nói bây giờ các điều kiện cho vay của nhà nước khó khăn hơn", vị này cho biết.

Giá của lãi suất chính là giá của rủi ro. Nếu như kinh tế học lý giải rằng khả năng thu nhập trong tương lai quyết định thái độ tiêu dùng hiện tại ví dụ trên minh chứng cho sự lo lắng của các ngân hàng. Ngân hàng đang không dám vung tay cho vay vì họ biết họ còn "khối u" nợ xấu.

Theo khảo sát, trần lãi suất trần huy động xuống đến 9% nhưng trên thị trường sự phân hóa giữa các nhóm doanh nghiệp được hưởng những nhóm lãi suất khác nhau vẫn rất xa. Các gói kích thích lãi suất thấp được các ngân hàng tung ra với lãi suất thấp 11% đến 13%/năm (Agribank, BIDV, MB, Vietcombank... ) nhưng được giải ngân rất chậm, chủ yếu mới đến một số doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng và được ngân hàng tiếp tục vay hay đáo hạn các hợp đồng cũ (vốn có lãi suất cao hơn). Các hợp đồng cho vay mới, với các doanh nghiệp mới gần như chưa có.

Với đa số doanh nghiệp còn lại, lãi suất cho vay trên thị trường được các ngân hàng chào đối với các khoản vay thông thường dưới một năm vẫn trên 17%/năm. Thu nhập lãi cận biên (NIM) giữa 17% và 9% vẫn cao tới 8 điểm phần trăm, trong khi NIM ở một nền kinh tế bình thường chỉ là 4-5 điểm.

Khoảng cách phi lý đó nói lên sự trục trặc của thị trường. Tất nhiên với sự giảm của lãi suất, chi phí vốn của doanh nghiệp thời gian tới được dự báo sẽ giảm, đặc biệt ở một số doanh nghiệp nhưng quá trình hấp thụ vốn sẽ cần thêm thời gian, tối thiểu 1-2 tháng, và vẫn sẽ không thể bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.

Ngân hàng: "Khối u" chưa được cắt

Quay trở lại ngân hàng trên, với xuất phát điểm là ngân hàng quốc doanh đặc thù, dư nợ cho vay 20 khách hàng lớn nhất so với tổng dư nợ của ngân hàng đang là 17%, trong đó ngành xây dựng có tỷ lệ dư nợ lớn nhất, thường xuyên duy trì ở mức trên 14%. Tỷ lệ nợ nhóm 2 của ngân hàng này từ lâu vẫn duy trì trên 10% trong khi khuyến nghị của tổ chức định giá tín nhiệm với ngân hàng trong nhiều năm liền là cần giảm tỷ lệ nợ nhóm này xuống dưới 10%.

Vị lãnh đạo ngân hàng cho biết, ở ngân hàng của mình, kiểm soát chất lượng tín dụng đang là khâu được chú trọng hàng đầu rồi mới đến tăng trưởng tín dụng.

"Định kỳ mỗi tháng, hội sở chính có báo cáo gửi các chi nhánh danh sách các doanh nghiệp, ngành có tiềm ẩn rủi ro, chất lượng tín dụng ngành giảm sút để các chi nhánh dựa trên đó hạn chế không cho vay mới, kiểm soát chặt chẽ và đốc thúc thu nợ, lãi các khách hàng còn dư nợ", ông nói và thêm rằng "lãnh đạo ngân hàng cũng đã thu hẹp thẩm quyền phán quyết với các chi nhánh có nợ xấu và nợ nhóm 2 cao. Trong một số trường hợp chi nhánh không được tăng trưởng tín dụng mà chỉ tập trung thu nợ".

Mặc dù Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng phát biểu trên truyền thông rằng sẽ duy trì mức lãi suất trần huy động 9% từ nay tới cuối năm, song vị lãnh đạo ngân hàng này cho rằng nếu doanh nghiệp và ngân hàng không có chuyển biến tích cực sớm, cơ quan quản lý khó có thể không giảm tiếp mặt bằng lãi suất. Và bên cạnh việc dùng các biện pháp hành chính để đưa mặt bằng lãi suất xuống thấp thì trọng tâm của Chính phủ trong các tháng cuối năm là xử lý khối nợ xấu trong các ngân hàng.

Ông cũng cho hay, bóng tối của chất lượng tín dụng suy yếu vẫn đang dìm lợi nhuận các ngân hàng xuống. Ví dụ, năm 2011 do phải trích lập dự phòng rủi ro ở mức rất lớn, trên 4.000 tỷ nên cho dù chênh lệch thu chi của ngân hàng tăng trưởng ở mức rất cao, trên 45% nhưng lợi nhuận trước thuế của ngân hàng vẫn giảm khoảng 10%. Nhìn lại tình hình kinh doanh hơn 5 tháng qua, ông lắc đầu: "Câu hỏi lớn nhất bây giờ không chỉ của doanh nghiệp mà còn của các ngân hàng là tìm lợi nhuận ở đâu?"

Theo Hồng Phúc
Vietnamnet

 

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Lợi lớn

Ngày đăng : 26/06/2012 - 8:55 AM

 

Liên tục những ngày qua, nhiều NH đưa ra mức lãi vay sát trần huy động 9%. Nhìn qua thì có vẻ như, việc "ứ thanh khoản" khiến NH phải chấp nhận cho vay vốn rẻ nhưng thực chất, họ vẫn có lợi lớn.

 

Việc hạ trần huy động xuống 9% của NHNN là để thực hiện mục tiêu giảm lãi vay cho các lĩnh vực ưu tiên xuống 12%.

 

Bởi theo tính toán, chênh lệch đầu ra - đầu vào 3% đủ để các NH có lãi. Nhưng trên thực tế, lãi suất huy động có nhiều mức tùy kỳ hạn gửi trong đó thấp nhất là 2%. Vì vậy, nếu tính bình quân, lãi suất tiền gửi chỉ rơi vào khoảng 6 - 8% tùy NH. Cộng biên 3%, chúng ta hoàn toàn có trần lãi vay khoảng 9 - 11%/năm chứ không phải mức 12% như NHNN đưa ra. Cũng có nghĩa là, lãi suất ưu đãi của NHNN thực chất vẫn cao và hoàn toàn có thể giảm xuống thấp hơn. Và việc các NH hạ lãi vay sát với trần huy động, vẫn mang lại lợi lớn cho họ.

 

Vấn đề này không phải mới, cũng đã được đặt ra khi NHNN tiến hành hạ trần huy động những lần trước. Nhưng bất chấp các ý kiến góp ý, NHNN vẫn luôn "chọn" mức trần huy động thay vì lấy lãi suất huy động bình quân để tính trần cho vay các lĩnh vực ưu tiên.

 

Việc các NH tự hạ lãi suất cho vay thấp hơn "trần" vay mà NHNN đưa ra cũng cho thấy, chính sách đã luôn lạc hậu so với diễn biến thị trường.

 

Chính sách luôn tạo cơ hội cho các NH kiếm lợi đã diễn ra rất nhiều lần. Đơn cử như mục tiêu lớn nhất là giảm lãi vay nhưng NHNN lại áp trần huy động; tăng trưởng tín dụng âm thì mở rộng dư địa cho vay để các NH có thêm đất "dụng võ"; nợ xấu tăng thì tạo cơ chế giãn nợ, giảm nợ, đảo nợ; nợ xấu cao đến mức rủi ro thì đề xuất mua luôn cả nợ xấu; giảm trần huy động thì mở cơ chế thỏa thuận lãi suất tiết kiệm kỳ hạn dài... Có thể thấy rất rõ, chính sách luôn bảo vệ các NH, bảo vệ nguồn lợi nhuận của họ. Còn cơ chế thật sự, mục tiêu thật sự, có lẽ chỉ mang tính đối phó mà thôi. Nên trong một cuộc họp về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp gần đây, có ý kiến chua chát nói rằng, "điểm sáng" nhất trong bức tranh kinh tế những tháng đầu năm cũng như mấy năm nay là lợi nhuận của ngành NH. Sự thật đau lòng này, nghịch lý doanh nghiệp phá sản, khó khăn, sản xuất đình đốn, kinh tế rơi vào giảm phát mà ngân hàng vẫn lợi lớn này là nhờ những chính sách tạo lợi thế cho hệ thống NH của cơ quan quản lý như nói trên.

 

Doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vốn rẻ; tiền vay, gửi giữa các NH vẫn rất cao... Có nghĩa là vốn vẫn không thể chảy vào sản xuất như mục tiêu của Chính phủ? Nếu trước đó, chúng ta vẫn tránh dùng từ "giảm phát" bất chấp doanh nghiệp phá sản hàng loạt và hàng tồn kho tăng cao thì giờ đây, giảm phát đã được phản ánh cụ thể khi CPI tháng 6 đã chính thức giảm sau 39 tháng tăng liên tục. Giảm phát còn khó "trị" hơn lạm phát. Nền kinh tế đang đối mặt với những hệ lụy lớn từ việc điều hành chính sách tiền tệ kiểu này.

 

Theo Nguyên Khanh

thanh niên

 


Lãi suất liên ngân hàng tăng “bất thường”

Ngày đăng : 25/06/2012 - 6:19 PM

 

 

Ngày 25/6, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng được các ngân hàng chào cho nhau vay tăng từ 2-3%, riêng lãi suất 1 tháng đã lên tới 9%/năm.

Cụ thể, theo dữ liệu của Reuters, ngày 25/6, lãi suất qua đêm liên ngân hàng đã lên 7%/năm, từ mức 5%/năm cuối tuần trước; lãi suất kỳ hạn 1 tuần lên 7,5-8%/năm, từ mức 5%/năm; lãi suất kỳ hạn 1 tháng lên 8,5-9%/năm, từ mức 6%/năm.

Mức tăng từ 2-3%/năm so với tuần trước được xem là bước nhảy mạnh nhất của lãi suất liên ngân hàng, kể từ đợt điều chỉnh lãi suất huy động hôm 11/6.

Như vậy, mức lãi suất tới 9%/năm kỳ hạn 1 tháng của thị trường liên ngân hàng đã vượt qua mức lãi suất huy động từ 1-9 tháng của nhiều ngân hàng thương mại.

Việc lãi suất liên ngân hàng tăng hôm 25/6 diễn ra trong bối cảnh nhiều ngân hàng đã hạ lãi suất kỳ hạn dài xuống. Đồng thời các mức lãi suất từ 1 tháng đến dưới 12 tháng cũng không có biến động đáng chú ý.

Được biết, trước khi trần lãi suất huy động về 9%/năm hôm 11/6, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thấp kỷ lục khi có giao dịch ghi nhận mức lãi suất 1%/năm. Tuy nhiên, ngay trong ngày đầu trần lãi suất huy động về 9%/năm, lãi suất liên ngân hàng đã tăng mạnh, trong đó lãi suất qua đêm tăng gấp đôi lên 3%/năm. Sau đó, lãi suất liên ngân hàng dao động trong khoảng từ 5-8%/năm, trước khi có bước tăng như hôm 25/6.

Mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 21/2012/TT-NHNN quy định lãi suất cho vay, mua, bán giấy tờ có giá sẽ do các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự thỏa thuận. Tuy nhiên, trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định lãi suất cho vay liên ngân hàng để các tổ chức thực hiện. Tuy vậy, Thông tư 21 không nêu rõ khi nào thì “hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường”.

Trong một diễn biến đáng chú ý khác, giao dịch trên thị trường mở (OMO) hôm 25/6 tiếp tục đóng băng khi không có giao dịch thành công. Nhiều phiên qua, giao dịch OMO không có giao dịch hoặc đạt mức thấp, trong khi hoạt động phát hành tín phiếu cũng không đáng kể.

Theo Duy Cường
Vneconomy

 


Cần giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế

Ngày đăng : 21/06/2012 - 9:47 AM

 

 

“Các chính sách tiền tệ cần tập trong vào việc bình ổn giá cả, ổn định tiền tệ và giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế”.

 

Đó là khuyến nghị của ông Louis Taylor, Tổng giám đốc Ngân hàng TNHH một thành viên Standard Chartered (Việt Nam) khi trao đổi với ĐTCK về những trọng tâm của chính sách tiền tệ vào nửa sau năm 2012.

Theo ông, những lý do nào khiến DN Việt Nam phàn nàn là khó tiếp cận tín dụng ngân hàng?

Quyết định cho một DN vay hay không dựa vào sự hiểu biết của ngân hàng về DN đó. Ngoài ra, một phần vấn đề ở đây là sự minh bạch tài chính của DN. Trong bối cảnh môi trường kinh tế khó khăn, rất khó để nhận định phần nào của những khó khăn trong các hoạt động kinh doanh là do DN tự gây ra và phần nào là do ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế chung. Do đó, tại thời điểm đi xuống của chu kỳ kinh tế, việc đánh giá chất lượng tín dụng các DN sẽ luôn khó hơn tại những thời điểm kinh tế đi lên.

Lãi suất cho vay có phải là nguyên nhân chính khiến DN khó tiếp cận vốn, thưa ông?

Tuy lãi suất cho vay áp dụng cho các DN không thực sự hấp dẫn tại thời điểm này, nhưng từ trước đến nay, lãi suất thực luôn ở mức khá thấp. Lãi suất thực đang tăng với lạm phát đang trên đà giảm và lãi suất chính sách đang ở mức 9%/năm, lãi suất thực đang là 3%/năm. Tôi nghĩ rằng, nhu cầu tín dụng giảm do chi phí vay mượn cao. Trong thời điểm kinh tế đang đi xuống, nợ xấu tăng cao là chuyện phổ biến và trên thực tế, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam đang tăng. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho các ngân hàng lo ngại và không muốn cho khách hàng vay, mà thay vào đó, dùng số tiền này để cho vay một ngân hàng khác. Điều này đặt các DN muốn tiếp cận nguồn vốn vào hoàn cảnh khó khăn.

Nhiều ý kiến cho rằng, NHNN nên giảm lãi suất nhanh hơn, ông nghĩ sao?

Tốc độ và biên độ giảm lãi suất phải dựa trên bối cảnh chung của nền kinh tế. Việc cắt giảm lãi suất sẽ phải dựa vào cơ chế thị trường. Chúng ta không thể nói đơn thuần là NHNN nên giảm lãi suất, mà phải nói rằng, NHNN nên giảm lãi suất vì một số yếu tố cụ thể nào đó, ví dụ như lạm phát đang giảm nhanh hơn dự kiến. Do vậy, NHNN nên đưa ra các quyết định cắt giảm lãi suất nhanh hơn dự kiến. NHNN nên hướng tới việc tạo dựng sự ổn định phù hợp với bối cảnh kinh tế trong từng thời điểm.

Điểm gì cần lưu ý nếu NHNN quyết định giảm nhanh lãi suất, thưa ông?

Tôi nghĩ, nếu giảm lãi suất nhanh hơn cơ chế thị trường thì sẽ gây ra vấn đề. Chúng ta chỉ có thể đưa ra những nhận định dựa trên cơ sở bối cảnh kinh tế thị trường. Nếu lạm phát giảm 4% mà lãi suất chỉ giảm 1% thì sẽ là không đủ, nhưng nếu lạm phát tăng 1% mà lãi suất lại giảm 1% thì lại là quá nhiều. Đây chỉ là những con số mang tính chất minh hoạ, nhưng vấn đề mấu chốt ở đây là NHNN đã chính thức phát biểu sẽ “điều chỉnh lãi suất dựa trên các điều kiện thị trường”. NHNN đã rất thành công trong việc giảm lạm phát, ổn định tiền tệ và cho tới nay, 3 quyết định cắt giảm lãi suất đều nhận được những phản hồi tốt từ thị trường. Chúng ta chưa nhìn thấy tiền đồng bị mất giá hay những vấn đề kinh tế tương tự. Do đó, trên thực tế, NHNN đang điều hành rất tốt các chính sách của mình.

Theo ông, đâu là những vấn đề mấu chốt mà chính sách tiền tệ cần phải đặt trọng tâm trong nửa sau của năm 2012?

Như thường lệ, vấn đề mấu chốt ở đây là các chính sách tiền tệ cần phải tập trung vào việc bình ổn giá cả, ổn định tiền tệ và giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế. Chính phủ nên hướng mục tiêu tăng trưởng tín dụng vào đầu tư hơn là vào tiêu dùng. Tôi nghĩ, đây là lĩnh vực mà Chính phủ nên tập trung vào và trên thực tế, đây cũng là lĩnh vực mà Chính phủ đã tuyên bố là sẽ hướng tới.

Về tái cấu trúc ngành ngân hàng, theo ông, Việt Nam có nên đẩy nhanh tiến độ?

Kế hoạch tái cấu trúc ngành ngân hàng mà Chính phủ đưa ra là rất quan trọng, bởi “sức khỏe” của nền kinh tế tương lai sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch này. Sáp nhập các ngân hàng chỉ là một phần nhỏ của cả quá trình tái cấu trúc. Về kế hoạch tái cấu trúc, cái chúng ta muốn thấy không chỉ dừng lại ở các quyết định sáp nhập, mà là một kế hoạch cụ thể từ Chính phủ về việc làm thế nào để thực hiện các chiến lược đặt ra. Chiến lược này tốt, nhưng sẽ không thích hợp nếu không được thực thi.

 

Do đó, chúng tôi muốn Chính phủ đưa ra một kế hoạch hành động cụ thể về khối lượng công việc mà các đối tượng liên quan phải thực hiện, ai chịu trách nhiệm làm gì và thời hạn cụ thể cho từng đầu mục. Làm như vậy sẽ củng cố được niềm tin của thị trường vào quá trình tái cấu trúc. Quá trình tái cấu trúc nếu diễn ra theo đúng lộ trình, người dân sẽ nhận ra và ghi nhận những nỗ lực của Chính phủ. Còn lại, nếu như quá trình tái cấu trúc diễn ra quá chậm chạp, thì có nghĩa là hệ thống ngân hàng hiện tại (chưa tái cấu trúc) sẽ tồn tại lâu hơn. Điều này có thể làm giảm niềm tin của thị trường.

Theo Hồng Dung
ĐTCK

 

 


Nợ xấu tăng "chóng mặt", Chính phủ lên kế hoạch mua - bán

Ngày đăng : 20/06/2012 - 10:16 AM

 

Thống đốc NHNH Nguyễn Văn Bình cho biết, tính đến ngày 30/4/2012, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng 35%, lên khoảng 108.000 tỷ đồng. Chính phủ có kế hoạch bán nợ xấu, mua lại các bất động sản “ế” để cứu doanh nghiệp.

 

Trả lời chất vấn bằng văn bản tới đại biểu Quốc hội, Thống đốc NHNN xác nhận, nợ xấu tăng nhanh trong khi tín dụng đối với nền kinh tế giảm sút khiến cho tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ liên tục tăng từ 3,06% ở thời điểm cuối năm 2011 lên 4,14% tại thời điểm cuối tháng 4/2012.

 

Nợ xấu tăng với tốc độ trung bình 8,6%/tháng, hết 4 tháng đầu năm đã tăng thêm 28.000 tỷ đồng, lên mức 108.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng trung bình cao hơn so với mức tăng bình quân cùng kỳ năm trước.

 

Theo đó, nguyên nhân nợ xấu gia tăng chủ yếu do: tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong năm 2011 và chưa được cải thiện được trong 4 tháng đầu năm 2012, làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng. Thị trường bất động sản chậm phục hồi làm cho khả năng trả nợ của các doanh nghiệp cũng như việc xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng thêm khó khăn.

 

Ông Bình khẳng định, xử lý nợ xấu là một trong những nội dung quan trọng trong đề án cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng thương mại. NHNN đã và đang thường xuyên phối hợp với các cơ quan liên quan và ngân hàng triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu.

 

Trước hết, nhà nước chỉ đạo thực hiện việc bán nợ xấu có tài sản đảm bảo cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng doanh nghiệp (DATC) của Bộ Tài chính. Xóa nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro và xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay.

 

Các khoản nợ xấu phát sinh do thực hiện cho vay theo chỉ đạo hoặc chủ trương, chính sách của Chính phủ mà không có tài sản đảm bảo và không có khả năng thu hồi sẽ được Chính phủ xóa nợ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước; bán nợ xấu cho các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng, công ty mua bán nợ tư nhân và công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại.

 

Đối với một số khoản vay thế chấp bằng bất động sản, công trình hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng chưa bán được, Chính phủ xem xét mua lại các bất động sản đó để phuc vụ cho mục đích an sinh xã hội và hoạt động của cơ quan nhà nước.

 

Thống đốc Bình cũng cho biết, NHNN đang tập trung nghiên cứu, trình Thủ tướng cho phép thành lập công ty quản lý tài sản quốc gia thuộc Ngân hàng Nhà nước để phối hợp với DATC của Bộ Tài chính đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

 

Đồng thời, để kiểm soát, hạn chế nợ xấu gia tăng, Ngân hàng Nhà nước đang triển khai rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động tín dụng và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sửa đổi, bổ sung các chính sách về quản trị ngân hàng để quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín dụng nói  riêng của các tổ chức tín dụng. Yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện tăng vốn điều lệ theo lộ trình phù hợp để đảm bảo có đủ sức mạnh về tài chính, Thống đốc Bình cho biết.

P.Thảo

 

 


Ngân hàng luôn nắm đằng chuôi

Ngày đăng : 19/06/2012 - 10:11 AM

 

 

Lãi suất đầu vào (dưới 12 tháng) giảm còn 9%/năm, các DN kỳ vọng lãi suất cho vay giảm. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng nhỏ chạy đua lãi suất huy động kỳ hạn dài. Khi nào DN mới tiếp cận được vốn vay rẻ?

 

Đua lãi suất kỳ hạn dài

 

Cuối tuần trước, thị trường xôn xao khi Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) đột ngột đẩy mức lãi suất huy động VND cho kỳ hạn duy nhất 13 tháng lên tới ngưỡng 14%/năm. Sự việc này nhanh chóng bị xem là hiện tượng, thậm chí khiến nhiều người không khỏi e ngại mốc lãi suất đỉnh sẽ “châm ngò” cho một cuộc đua lãi suất mới. Nhất là khi lần giở lại thời kỳ lãi suất đang chạy đua, tham khảo báo cáo tài chính năm 2011 tại ngân hàng này, lãi suất cho vay cao nhất từng ghi nhận mức khủng khiếp tới 29%/năm.

 

Tuy nhiên, hôm qua, Western Bank đã có thông báo mới công bố áp mức lãi suất huy động kỳ hạn 13 tháng xuống còn 12,5%/năm, thay cho mức 14%/năm hôm 14- 6.

 

“Động thái hạ lãi suất của ngân hàng đã khiến cả thị trường thở phào. E ngại về một cuộc chạy đua nâng lãi suất huy động kỳ hạn dài có thể sẽ không xảy ra”- Tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần nhận định.

 

Chia sẻ với Tiền Phong, một đại diện NHNN cho hay bản thân NHNN đang theo rất sát thị trường, không việc gì phải nóng vội trước hiện tượng đơn lẻ trên. Theo ông cần phải nhìn nhận rõ sẽ không mấy khách hàng chọn kỳ hạn dài.

 

Theo quy định mới của NHNN, mức trần 9%/năm sẽ chỉ được áp dụng cho các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn từ 1-12 tháng. Còn đối với các kỳ hạn trung - dài hạn trên 12 tháng ngân hàng được tự thỏa thuận mức lãi đối với khách hàng gửi tiền.

 

Thống kê đến thời điểm này, hầu hết các ngân hàng đều ấn định mức lãi suất ở các kỳ hạn dài từ 9,5-12%. Đơn cử biểu lãi suất của ACB đã tăng mạnh lãi suất huy động VND ở các kỳ hạn dài, từ 12-36 tháng từ 10,4%-12%/năm; riêng mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ có ở kỳ hạn 36 tháng.

 

Tại Sacombank, biểu lãi suất cập nhật trong ngày 13-6 cũng có mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ ở các kỳ hạn 24 và 36 tháng; mức 11%/năm có ở kỳ hạn 13, 15 và 18 tháng.

 

Biểu lãi suất của VPBank áp dụng từ ngày 11-6, các kỳ hạn tiền gửi từ 12 tới 36 tháng đều ở mức 10,5%/năm...

 

Một chuyên gia phân tích: “Chuyện chạy đua lãi suất chỉ xảy ra khi các ngân hàng gặp khó về thanh khoản và đồng thời họ được tăng trưởng tổng tài sản một cách thoải mái. Còn lãi suất liên ngân hàng rẻ vài phần trăm, thì dại gì phải đi vay cao ở bên ngoài. Thanh khoản hiện nay tương đối dồi dào. Thống đốc vẫn khống chế tín dụng, gián tiếp khống chế tổng tài sản. Thống đốc cho phép tự do hóa trần trung và dài hạn, không ai dại gì để chạy đua”.

 

Cũng theo vị chuyên gia này, hiện tượng Western Bank đột ngột đẩy kỳ hạn 13 tháng lên cao rồi lại hạ xuống đã cho thấy mức lãi suất đó khó nhận được sự hưởng ứng của giới ngân hàng còn lại và chỉ khiến người ta nhìn ngân hàng này với sự e ngại hơn.

 

“Săn” doanh nghiệp tốt

 

Chủ tịch HĐQT thành viên Agribank Nguyễn Ngọc Bảo kể: “Chúng tôi có khách hàng là một ông chủ nuôi gà, cần vốn, vay 2 tỷ đồng. Căn cứ trên điều kiện cần và đủ ngân hàng đã cho vay với lãi suất 15%. Khách hàng nhận vốn rất vui mừng mà không hề đắn đo hay phàn nàn gì về lãi suất. Một hộ nuôi ba ba ở Lương Sơn, đang vay với mức đó cũng không kêu ca”. Vậy vấn đề ở đây là gì? Vị chủ tịch này chỉ ra: “Trong điều kiện cạnh tranh, ngân hàng đang nhìn các doanh nghiệp tốt một cách tích cực, chứ không hề gây khó dễ. Hiện các NHTM không hề “thắt chặt” mà thậm chí có dễ hơn so với cách đây ít thời gian”.

 

Như để minh chứng, ông Bảo diễn giải: 5 tháng đầu năm, tín dụng của Agribank tăng 1,5% trong đó riêng nông thôn tăng 2,4%. Ngân hàng đang triển khai nhiều chính sách, mở rộng cho vay “lưu vụ”, cho vay đến hạn chỉ trả hết lãi rồi vẫn được giữ nợ cũ để vay tiếp mà không phải chuyển nợ.

 

Theo ông Bảo, đã đến lúc rất cần có một cách nhìn “rộng” hơn với đối tượng DN. Nhiều người kêu ca tiếp cận vốn rất khó vì các điều kiện ngân hàng đưa ra rất nhiều, để đạt lãi suất mong muốn thì rất khó.

 

Nhưng thực tế là với 5-6 nghìn tỷ đưa ra, các ngân hàng không hề tăng thêm bất cứ điều kiện nào. Thậm chí đối với những khách hàng tốt mà khó khăn, nhiều ngân hàng sẵn sàng cơ cấu lại nợ.

 

Theo ông Phạm Quang Tùng, Phó tổng giám đốc BIDV, ngân hàng này đã giảm mạnh lãi suất đầu ra. Thực tế nhiều khách hàng tốt cũng đã được BIDV điều chỉnh ngay trên hợp đồng.

 

“Một số doanh nghiệp kêu cao, chủ yếu tập trung vào số ít các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không tốt, khả năng phục hồi không cao.

 

Các ngân hàng thương mại luôn có chính sách mời chào, ưu đãi các doanh nghiệp phát triển. Giai đoạn hiện nay có thể coi là thời điểm “sát hạch”, loại đi những doanh nghiệp làm ăn không tốt, không đáng tồn tại”- Ông Tùng nói.

 

“Các doanh nghiệp tốt thì ngân hàng đã săn đón từ lâu rồi và cạnh tranh nhau để giảm” - ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc VPBank cho biết. Liên quan đến việc DN kêu khó tiếp cận vốn, theo ông Hưng, đúng là hiện ngân hàng cho vay ra thì không cho vay được, gửi trên liên ngân hàng thì lỗ nặng nhưng sẽ không có chuyện đẩy vốn ra ồ ạt vì thừa vốn. “Với những doanh nghiệp làm ăn không tốt thì chúng tôi phải thận trọng. Nếu không, khi đó ngân hàng phải gánh hậu quả nặng nề” .

 

 

Lãi suất vay bao giờ thực hạ?

 

Liên quan đề nghị giảm lãi cho vay cũ để giải quyết khó khăn của nhiều DN, đại diện các NH đều cho rằng: Trước đây lãi suất huy động ở mức cao, nếu cộng cả khuyến mại cũng rất cao, vì thế nếu hạ lãi suất đầu vào bây giờ thì lãi suất cho vay của NH không thể giảm ngay. NHNN cũng không thể đưa ra quyết định bắt ngân hàng giảm lãi suất cho vay. Đây là hợp đồng tín dụng hai bên cùng chia sẻ rủi ro. Tuy nhiên, các khách hàng tốt vay vốn ngắn hạn đã được hưởng lãi suất mới.

 

Làm thế nào để DN tiếp cận vốn rẻ, ông Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng: “Không nên quá sốt ruột, các hoạt động kinh tế bao giờ cũng có lộ trình và chính sách có độ trễ không thể vừa ra đã “ăn” ngay được. Dự báo trong nửa cuối tháng 6 và sang tháng 7, dư nợ sẽ tăng lên và đó là thời điểm lãi suất bắt đầu chính thức hạ mạnh”- ông Bảo nói.

 

Theo Khánh Huyền

Tiền phong

 

 


 

Tin mới cập nhật