Ngân hàng luôn nắm đằng chuôi

Ngày đăng : 19/06/2012 - 10:11 AM

 

 

Lãi suất đầu vào (dưới 12 tháng) giảm còn 9%/năm, các DN kỳ vọng lãi suất cho vay giảm. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng nhỏ chạy đua lãi suất huy động kỳ hạn dài. Khi nào DN mới tiếp cận được vốn vay rẻ?

 

Đua lãi suất kỳ hạn dài

 

Cuối tuần trước, thị trường xôn xao khi Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) đột ngột đẩy mức lãi suất huy động VND cho kỳ hạn duy nhất 13 tháng lên tới ngưỡng 14%/năm. Sự việc này nhanh chóng bị xem là hiện tượng, thậm chí khiến nhiều người không khỏi e ngại mốc lãi suất đỉnh sẽ “châm ngò” cho một cuộc đua lãi suất mới. Nhất là khi lần giở lại thời kỳ lãi suất đang chạy đua, tham khảo báo cáo tài chính năm 2011 tại ngân hàng này, lãi suất cho vay cao nhất từng ghi nhận mức khủng khiếp tới 29%/năm.

 

Tuy nhiên, hôm qua, Western Bank đã có thông báo mới công bố áp mức lãi suất huy động kỳ hạn 13 tháng xuống còn 12,5%/năm, thay cho mức 14%/năm hôm 14- 6.

 

“Động thái hạ lãi suất của ngân hàng đã khiến cả thị trường thở phào. E ngại về một cuộc chạy đua nâng lãi suất huy động kỳ hạn dài có thể sẽ không xảy ra”- Tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần nhận định.

 

Chia sẻ với Tiền Phong, một đại diện NHNN cho hay bản thân NHNN đang theo rất sát thị trường, không việc gì phải nóng vội trước hiện tượng đơn lẻ trên. Theo ông cần phải nhìn nhận rõ sẽ không mấy khách hàng chọn kỳ hạn dài.

 

Theo quy định mới của NHNN, mức trần 9%/năm sẽ chỉ được áp dụng cho các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn từ 1-12 tháng. Còn đối với các kỳ hạn trung - dài hạn trên 12 tháng ngân hàng được tự thỏa thuận mức lãi đối với khách hàng gửi tiền.

 

Thống kê đến thời điểm này, hầu hết các ngân hàng đều ấn định mức lãi suất ở các kỳ hạn dài từ 9,5-12%. Đơn cử biểu lãi suất của ACB đã tăng mạnh lãi suất huy động VND ở các kỳ hạn dài, từ 12-36 tháng từ 10,4%-12%/năm; riêng mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ có ở kỳ hạn 36 tháng.

 

Tại Sacombank, biểu lãi suất cập nhật trong ngày 13-6 cũng có mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ ở các kỳ hạn 24 và 36 tháng; mức 11%/năm có ở kỳ hạn 13, 15 và 18 tháng.

 

Biểu lãi suất của VPBank áp dụng từ ngày 11-6, các kỳ hạn tiền gửi từ 12 tới 36 tháng đều ở mức 10,5%/năm...

 

Một chuyên gia phân tích: “Chuyện chạy đua lãi suất chỉ xảy ra khi các ngân hàng gặp khó về thanh khoản và đồng thời họ được tăng trưởng tổng tài sản một cách thoải mái. Còn lãi suất liên ngân hàng rẻ vài phần trăm, thì dại gì phải đi vay cao ở bên ngoài. Thanh khoản hiện nay tương đối dồi dào. Thống đốc vẫn khống chế tín dụng, gián tiếp khống chế tổng tài sản. Thống đốc cho phép tự do hóa trần trung và dài hạn, không ai dại gì để chạy đua”.

 

Cũng theo vị chuyên gia này, hiện tượng Western Bank đột ngột đẩy kỳ hạn 13 tháng lên cao rồi lại hạ xuống đã cho thấy mức lãi suất đó khó nhận được sự hưởng ứng của giới ngân hàng còn lại và chỉ khiến người ta nhìn ngân hàng này với sự e ngại hơn.

 

“Săn” doanh nghiệp tốt

 

Chủ tịch HĐQT thành viên Agribank Nguyễn Ngọc Bảo kể: “Chúng tôi có khách hàng là một ông chủ nuôi gà, cần vốn, vay 2 tỷ đồng. Căn cứ trên điều kiện cần và đủ ngân hàng đã cho vay với lãi suất 15%. Khách hàng nhận vốn rất vui mừng mà không hề đắn đo hay phàn nàn gì về lãi suất. Một hộ nuôi ba ba ở Lương Sơn, đang vay với mức đó cũng không kêu ca”. Vậy vấn đề ở đây là gì? Vị chủ tịch này chỉ ra: “Trong điều kiện cạnh tranh, ngân hàng đang nhìn các doanh nghiệp tốt một cách tích cực, chứ không hề gây khó dễ. Hiện các NHTM không hề “thắt chặt” mà thậm chí có dễ hơn so với cách đây ít thời gian”.

 

Như để minh chứng, ông Bảo diễn giải: 5 tháng đầu năm, tín dụng của Agribank tăng 1,5% trong đó riêng nông thôn tăng 2,4%. Ngân hàng đang triển khai nhiều chính sách, mở rộng cho vay “lưu vụ”, cho vay đến hạn chỉ trả hết lãi rồi vẫn được giữ nợ cũ để vay tiếp mà không phải chuyển nợ.

 

Theo ông Bảo, đã đến lúc rất cần có một cách nhìn “rộng” hơn với đối tượng DN. Nhiều người kêu ca tiếp cận vốn rất khó vì các điều kiện ngân hàng đưa ra rất nhiều, để đạt lãi suất mong muốn thì rất khó.

 

Nhưng thực tế là với 5-6 nghìn tỷ đưa ra, các ngân hàng không hề tăng thêm bất cứ điều kiện nào. Thậm chí đối với những khách hàng tốt mà khó khăn, nhiều ngân hàng sẵn sàng cơ cấu lại nợ.

 

Theo ông Phạm Quang Tùng, Phó tổng giám đốc BIDV, ngân hàng này đã giảm mạnh lãi suất đầu ra. Thực tế nhiều khách hàng tốt cũng đã được BIDV điều chỉnh ngay trên hợp đồng.

 

“Một số doanh nghiệp kêu cao, chủ yếu tập trung vào số ít các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không tốt, khả năng phục hồi không cao.

 

Các ngân hàng thương mại luôn có chính sách mời chào, ưu đãi các doanh nghiệp phát triển. Giai đoạn hiện nay có thể coi là thời điểm “sát hạch”, loại đi những doanh nghiệp làm ăn không tốt, không đáng tồn tại”- Ông Tùng nói.

 

“Các doanh nghiệp tốt thì ngân hàng đã săn đón từ lâu rồi và cạnh tranh nhau để giảm” - ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc VPBank cho biết. Liên quan đến việc DN kêu khó tiếp cận vốn, theo ông Hưng, đúng là hiện ngân hàng cho vay ra thì không cho vay được, gửi trên liên ngân hàng thì lỗ nặng nhưng sẽ không có chuyện đẩy vốn ra ồ ạt vì thừa vốn. “Với những doanh nghiệp làm ăn không tốt thì chúng tôi phải thận trọng. Nếu không, khi đó ngân hàng phải gánh hậu quả nặng nề” .

 

 

Lãi suất vay bao giờ thực hạ?

 

Liên quan đề nghị giảm lãi cho vay cũ để giải quyết khó khăn của nhiều DN, đại diện các NH đều cho rằng: Trước đây lãi suất huy động ở mức cao, nếu cộng cả khuyến mại cũng rất cao, vì thế nếu hạ lãi suất đầu vào bây giờ thì lãi suất cho vay của NH không thể giảm ngay. NHNN cũng không thể đưa ra quyết định bắt ngân hàng giảm lãi suất cho vay. Đây là hợp đồng tín dụng hai bên cùng chia sẻ rủi ro. Tuy nhiên, các khách hàng tốt vay vốn ngắn hạn đã được hưởng lãi suất mới.

 

Làm thế nào để DN tiếp cận vốn rẻ, ông Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng: “Không nên quá sốt ruột, các hoạt động kinh tế bao giờ cũng có lộ trình và chính sách có độ trễ không thể vừa ra đã “ăn” ngay được. Dự báo trong nửa cuối tháng 6 và sang tháng 7, dư nợ sẽ tăng lên và đó là thời điểm lãi suất bắt đầu chính thức hạ mạnh”- ông Bảo nói.

 

Theo Khánh Huyền

Tiền phong

 

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Đã có phương án chuyển đổi vàng “phi SJC”

Ngày đăng : 18/06/2012 - 11:08 AM

 

 

Đối với số lượng vàng SJC móp méo, cong vênh sẽ được dập, gia công lại thành vàng SJC đủ chuẩn để tiếp tục lưu thông ra thị trường.

Lãnh đạo Ngân hàng (NH) Nhà nước Chi nhánh TPHCM cho biết hiện đã có phương án chuyển đổi vàng các loại sang vàng SJC sau nhiều cuộc họp giữa Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC), NH Nhà nước Chi nhánh TP và UBND TPHCM.

Sau khi gửi văn bản, UBND TP đang chờ NH Nhà nước cho ý kiến sẽ tiến hành chuyển đổi vàng phi SJC. Đối với người dân muốn giữ vàng miếng các loại sẽ tiếp tục được bảo đảm quyền lợi.

Cũng theo vị này, đối với số lượng vàng SJC móp méo, cong vênh sẽ được dập, gia công lại thành vàng SJC đủ chuẩn để tiếp tục lưu thông ra thị trường.

Trước đó, người dân có vàng SJC bị móp méo, cong vênh đã bị nhiều tiệm vàng từ chối mua hoặc mua với giá thấp, còn SJC đồng ý mua vào làm vàng nguyên liệu nhưng số lượng hạn chế.

Theo T.Phương

NLĐ

 

 


Đường cong lãi suất đã quay trở lại đúng quy luật

Ngày đăng : 15/06/2012 - 9:50 AM

 

 

Sau một thời gian thẳng băng, đường cong lãi suất đã bắt đầu xu hướng uốn trở lại theo đúng quy luật. Các kỳ hạn gửi tiền dài lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn.

 

Theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước, mức trần 9%/năm sẽ chỉ được áp dụng cho các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn từ 1-12 tháng. Còn đối với các kỳ hạn trung–dài hạn trên 12 tháng các ngân hàng được tự thỏa thuận mức lãi đối với khách hàng gửi tiền.

Chính vì vậy, hai ngày sau khi mức lãi suất huy động 9%/năm có hiệu lực, các ngân hàng đã có sự điều chỉnh đáng kể trên bảng niêm yết lãi suất của mình. Đến nay, hầu hết các ngân hàng đều tự ấn định mức lãi suất ở các kỳ hạn dài từ 9,5-12%.

Cụ thể, biểu lãi suất của ACB đã tăng mạnh lãi suất huy động VND ở các kỳ hạn dài, từ 12-36 tháng từ 10,4%-12%/năm; riêng mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ có ở kỳ hạn 36 tháng.

Tại Sacombank, biểu lãi suất cập nhật trong ngày 13/6 cũng có mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ ở các kỳ hạn 24 và 36 tháng; mức 11%/năm có ở kỳ hạn 13, 15 và 18 tháng.

Biểu lãi suất của VPBank áp dụng từ ngày 11/6, các kỳ hạn tiền gửi từ 12 tới 36 tháng đều ở mức 10,5%/năm. Thậm chí, nhà băng này còn trưng biểu lãi suất cao nhất 10,5%/năm để "câu khách."

Như vậy, sau hơn hai năm đường cong lãi suất tại các ngân hàng thương mại mới được thiết lập trở lại đúng theo quy luật, kỳ hạn gửi càng cao thì lãi suất cao, kỳ hạn ngắn lãi suất thấp...

Tuy nhiên, cũng có khá nhiều ngân hàng đang thận trọng thăm dò thị trường chỉ áp dụng các mức lãi suất từ 9-10,5%.

Một số chuyên gia cho rằng, việc đường cong lãi suất được tái lập cho thấy thanh khoản của các ngân hàng đã được cải thiện đáng kể. Đây cũng là dấu hiệu tốt nhen lên hy vọng khi lãi suất về mức hợp lý sẽ giải quyết được bài toán lãi suất cho vay giữa ngân hàng và doanh nghiệp./.

Theo Thúy Hà 
Vietnam+

 

 


Mô hình nào cho công ty mua bán nợ xấu?

Ngày đăng : 14/06/2012 - 10:47 AM

 

Với quy mô nợ xấu trong hệ thống tín dụng hiện nay, rất cần thành lập một công ty mua bán nợ có đủ tiềm lực để xử lý.

Vấn đề là công ty này sẽ hoạt động với mô hình nào và bằng nguồn tài chính từ đâu?

Giải pháp thành lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM liệu có phải là giải pháp tốt để giúp hệ thống NHTM xử lý các khoản nợ xấu? Để có câu trả lời phù hợp, chúng ta hãy xem xét lại tình hình xử lý nợ xấu trên thị trường và các giải pháp hiện có.

Hiện trạng xử lý nợ xấu ở Việt Nam

Hiện nay, các khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng (TCTD) được xử lý bằng hai cách: cách 1 là bán đấu giá các tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu đã xử lý; cách 2 là bán nợ xấu cho các TCTD khác hoặc các công ty quản lý tài sản (AMC).

Đối với cách 1, việc bán đấu giá mất rất nhiều thời gian do TCTD phải hoàn thành nhiều thủ tục pháp lý, định giá tài sản, bán đấu giá… Mỗi khi cần bán nợ hoặc bán tài sản siết nợ, TCTD phải thành lập hội đồng xử lý nợ và còn phải mất nhiều công sức hơn để tìm kiếm người mua, chào bán với giá hợp lý để đảm bảo TCTD không bị thiệt hại.

Đối với cách 2, về bản chất, khi các khoản nợ xấu được mua bán giữa các TCTD hoặc qua công ty AMC thì nợ xấu vẫn nằm trong hệ thống ngân hàng nhưng dưới hình thức khác, vì công ty AMC là công ty con, công ty trực thuộc của TCTD. Khi các TCTD thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính thì những khoản nợ xấu này vẫn nằm trong bảng cân đối kế toán hợp nhất, nhưng dưới một tên gọi khác, ví dụ như là tài sản Có khác.

Như vậy, có thể thấy, cách xử lý đối với nợ xấu và tài sản đảm bảo/tài sản liên quan đến nợ xấu đã xử lý của các TCTD hiện nay thiếu hẳn định hướng và mang tính tự phát. Nó chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề của từng TCTD, hơn là một giải pháp tổng thể cho nền kinh tế nói chung và cho hệ thống ngân hàng nói riêng. Ngoài ra, cơ chế hoạt động như vậy không tạo ra một thị trường mua bán nợ xấu chuyên nghiệp.

Vấn đề tiếp theo là vì sao đã có công ty mua bán nợ (DATC) thuộc Bộ Tài chính, nhưng vẫn nêu ý tưởng thành lập công ty mua bán nợ của NHNN? Đây là một vấn đề không dễ lý giải, vì nếu xét theo chức năng kinh doanh, công ty mua bán nợ theo ý tưởng của NHNN sẽ giống đến 90% chức năng của DATC. Tuy nhiên, có một số điểm giải thích cho vấn đề này.

Thứ nhất, DATC là DNNN, phạm vi hoạt động không chỉ gói gọn trong hệ thống NHTM mà còn của cả nền kinh tế, nhưng tiềm lực của DATC lại khá hạn chế so với quy mô các khoản nợ xấu trong hệ thống tín dụng hiện nay. Trong khi đó, quy trình từ khi mua lại tài sản xấu, tái cấu trúc và khai thác tài sản loại này để bán lại sinh lời là rất phức tạp. Không phải tất cả các giao dịch tái cấu trúc đều thành công. Theo tỷ lệ mà các quỹ đầu tư mạo hiểm thực hiện đầu tư vào việc mua lại nợ xấu và các tài sản liên quan thì chỉ có khoảng 30% giao dịch là thực hiện tái cấu trúc thành công. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công 30% có khả năng tạo ra lợi nhuận đủ lớn để bù đắp cho các thương vụ thất bại và đủ hấp dẫn các NĐT để tạo ra thị trường mua bán nợ xấu trị giá nhiều tỷ USD ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương như hiện nay.

Thứ hai, bản chất của việc mua bán nợ xấu là hoạt động kinh doanh mang tính mạo hiểm, có khả năng mang lại lợi nhuận cao trên cơ sở rủi ro cao. Trong khi đó, theo cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, cơ chế quản lý, giám sát của DATC với tư cách là DNNN, sẽ rất khó để DATC chấp nhận các hoạt động mang tính mạo hiểm kiểu này. Thực tế cho thấy, nếu như một khoản nợ hoặc tài sản đảm bảo của khoản nợ đó, có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, có giá bán dễ dàng tham chiếu và đáng tin cậy thì người vay đã tự xử lý để thu hồi tiền và trả nợ cho ngân hàng, chứ không để ngân hàng siết nợ.

Từ hai nguyên nhân trên, có thể thấy một mình DATC chưa thể đảm nhiệm việc xử lý các khoản nợ xấu của hệ thống NHTM. Trong khi đó, việc giải tỏa các khoản nợ xấu đang tồn đọng tại các TCTD là nhu cầu cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế suy thoái, nhiều DN phá sản, không còn khả năng trả nợ cho ngân hàng. Vì thế, giải pháp mà NHNN đưa ra là thành lập một công ty mua bán nợ được xem là kịp thời trong thời điểm hiện tại.

Mô hình nào?

Thứ nhất, đó phải là công ty cổ phần mà Nhà nước là một cổ đông lớn và có sự tham gia của các TCTD. Việc tổ chức công ty mua bán nợ theo mô hình này rất quan trọng, cho phép công ty có thể chấp nhận rủi ro từ việc mua nợ xấu, được thuê các chuyên gia tái cấu trúc DN tham gia cơ cấu lại DN và có cơ chế quản trị DN lành mạnh để tránh các hiện tượng tiêu cực, chi phối hoặc xin - cho mà dư luận đã đặt ra từ khi có đề xuất thành lập công ty mua bán nợ.

Vai trò dẫn dắt và định hướng của Nhà nước trong giai đoạn đầu là cần thiết để giúp công ty ổn định mục tiêu và chiến lược kinh doanh. Đến thời điểm thích hợp, Nhà nước có thể thoái vốn dần khỏi công ty.

Thứ hai, công ty mua bán nợ phải có khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn để có thể mua lại các khoản nợ xấu. Ở các nước, các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng tham gia rất tích cực trong việc đầu tư vào các công ty hay các quỹ có tính chất tương tự như công ty mua bán nợ theo đề xuất của NHNN và họ có các nguồn vốn dài hạn để đầu tư mua lại các khoản nợ, các tài sản xấu này. Với tình hình và bản chất nguồn vốn ở Việt Nam là phần lớn mang tính ngắn hạn, đây có lẽ là một thử thách lớn đối với công ty mua bán nợ để có thể hoạt động ổn định và bền vững.

Thứ ba, công ty mua bán nợ không những phải có năng lực tài chính mà phải có đội ngũ chuyên gia có khả năng tham gia trực tiếp tái cấu trúc DN, hoặc phải có cơ chế thuê các chuyên gia tư vấn hàng đầu để tái cấu trúc DN. Bên cạnh đó, đội ngũ thẩm định, đánh giá tài sản… để hỗ trợ cho các hoạt động của công ty cũng cần được chuyên nghiệp hóa.

Công ty có thể xem xét việc thuê tư vấn bên ngoài để thực hiện các nhiệm vụ trên. Trong trường hợp đó, cơ chế thuê tư vấn, tổ chức thực hiện, bảo mật thông tin… phải được thực hiện hết sức nghiêm túc và chặt chẽ.


Thứ tư, một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của công ty mua bán nợ là phương pháp hạch toán kế toán và định giá tài sản vì thông thường, khi thực hiện mua tài sản xấu từ các TCTD, giá mua có thể rất khác so với giá trị thật của tài sản. Vì vậy, phương pháp ghi nhận nên được đo lường khi mua như thế nào và sau đó ghi nhận tiếp theo ra sao, ví dụ tăng giá, giảm giá trong các kỳ kế toán là một vấn đề cần được xem xét để đảm bảo hoạt động tài chính của công ty mua bán nợ là minh bạch và rõ ràng.

Có thể nói, sự tham gia của công ty mua bán nợ sẽ bổ sung thêm giải pháp thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM. Có thể hình dung công ty mua bán nợ sẽ giúp giải quyết các vấn đề sau:

* Giúp các TCTD xử lý nhanh các tài sản xấu để thu hồi nguồn tiền. TCTD không phải dùng nguồn lực để theo đuổi các vụ thanh lý tài sản, bán nợ… như trước đây để tập trung cho hoạt động kinh doanh chính;

* Tách các tài sản xấu của các TCTD ra khỏi hệ thống ngân hàng và công ty mua bán nợ thực hiện các biện pháp tái cơ cấu dễ dàng hơn, ví dụ có thể thành lập các pháp nhân mới, thành lập các liên doanh để xử lý và khai thác tài sản. Đây là những nghiệp vụ mà TCTD không dễ dàng thực hiện do bị hạn chế về phạm vi hoạt động, theo đó, các TCTD chỉ tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh ngân hàng và không tập trung vào các lĩnh vực khác ngoài một số lĩnh vực rất hạn chế mà Luật Các TCTD cho phép;

* Giữ vai trò điều tiết trong trường hợp thị trường có biến động;

* Bên cạnh NHNN là người cho vay cuối cùng, công ty mua bán nợ cũng có thể được coi là một định chế có thể mua lại tài sản của các TCTD trong trường hợp TCTD có nhu cầu bán để giải quyết nhu cầu thanh khoản hay thu hẹp hoạt động kinh doanh;

* Thu hút các khoản đầu tư dài hạn của các tổ chức có nguồn vốn dài hạn, ví dụ từ các công ty bảo hiểm... do đặc thù hoạt động của công ty mua bán nợ là đầu tư vào các tài sản dài hạn.

Vậy nhưng, có một câu hỏi lớn đặt ra là, công ty mua bán nợ của NHNN phải hoạt động như thế nào để đảm bảo thành công?

Theo Văn Tấn
ĐTCK

 


Gánh nợ xấu ngân hàng: Khó kiểm soát in tiền

Ngày đăng : 12/06/2012 - 9:53 AM

 

 

Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, việc mua bán xử lý nợ xấu luôn gắn với quá trình in tiền.
 
Vì vậy, việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đề xuất thành lập công ty mua bán nợ đang khiến dư luận lo ngại và đặt câu hỏi, ai sẽ kiểm soát dòng tiền "đi" qua "cửa" mua nợ xấu.
 
Lỗ, lãi ai chịu?
 
Việc mở một công ty mua bán nợ để mua nợ xấu NH, đặc biệt là do NHNN đứng ra thành lập và quản lý đối mặt với nhiều rủi ro. Mà tình hình hiện tại cho thấy, khả năng này khá rõ ràng. Bởi trên thực tế, công ty mua bán nợ của nhà nước đã có cả gần chục năm nay, đó là Công ty Mua bán nợ và xử lý tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài chính ra đời từ 2003 với vốn điều lệ 2.000 tỉ đồng. DATC có vai trò đứng ra mua lại nợ, tiếp nhận và xử lý tại các DN nhà nước, thậm chí kể cả tư nhân. Nhưng hoạt động của DATC như thế nào trong suốt thời gian qua, không ai biết. Chỉ đến khi công ty này đứng ra mua nợ của Công ty CP thủy sản Bình An, nhiều người mới biết sự tồn tại của nó. Nhưng DATC đã thực hiện bao nhiêu vụ mua bán nợ, các thương vụ mua nợ trước đó được thực hiện thế nào, cơ chế bán nợ ra sao? Không có nhiều thông tin.
 
Với hiệu quả như phân tích trên, khả năng giao cho Bộ Tài chính quản lý công ty mua bán nợ (để giám sát chéo) là rất khó. Và khi không sử dụng công ty mua bán nợ sẵn có của Bộ Tài chính, thì công ty mua bán nợ chỉ "chuyên" về mua nợ xấu NH gần như chắc chắn sẽ do NHNN thành lập và quản lý. Một số ý kiến cho rằng, đây là lựa chọn phù hợp hơn nếu nhìn ở góc độ cân đối nguồn tài chính. Bởi NHNN có nhiều nguồn vốn như từ tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền vượt dự trữ bắt buộc của các NHTM; tiền phát hành tín phiếu, thậm chí là một phần nhỏ từ… in thêm tiền nếu thấy cần thiết.
 
Nhưng đây chỉ là bề nổi mà ẩn sâu sau đó là rất nhiều rủi ro và hệ lụy. Vì dù sử dụng hay thực hiện kỹ thuật nào để mua nợ, công ty mua bán nợ cũng phải phát hành trái phiếu có sự bảo lãnh của NHNN để cấn trừ nợ. Trong trường hợp có tiền mặt từ ngân sách nhà nước để bỏ ra thành lập công ty, thì phần tiền còn lại để mua nợ phải được lấy từ hoán đổi trái phiếu. Câu hỏi đặt ra là, tiền lãi phát sinh mỗi năm sẽ lấy ở đâu ra để trả. Giả sử 90%/tổng giá trị mua nợ là trái phiếu phát hành với lãi suất 10% thì tiền lãi mỗi năm cũng lên tới 9.000 tỉ đồng (90.000 tỉ đồng x 10%= 9.000 tỉ đồng). Còn nếu 100% là trái phiếu thì số lãi mỗi năm lên tới 10.000 tỉ đồng. Số tiền này lấy từ nguồn nào? Như đã phân tích ở các bài trước, nợ xấu của các NH chủ yếu là bất động sản và chứng khoán. 
 
Với bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới như hiện nay, chắc chắn trong vài năm tới, tài sản mua nợ không dễ bán đi. Nghĩa là thời gian trả lãi sẽ kéo dài, số tiền trả lãi nhiều hơn. Đó là chưa tính đến trường hợp công ty này thua lỗ (nguy cơ rất lớn), NHNN sẽ phải in tiền để tài trợ. Cũng có nghĩa là một lượng tiền sẽ được đẩy vào nền kinh tế, có thể gây lạm phát, gây méo mó chính sách tiền tệ. Gánh chịu hậu quả nhiều nhất trong việc này chính là người dân và DN. Như vậy, đối tượng là mục tiêu để "cứu" của đề xuất này hoàn toàn có thể trở thành nạn nhân. Quan trọng hơn, cơ quan in tiền lại trực tiếp quản lý, điều hành công ty mua bán nợ và mua lại nợ xấu của chính các NH do mình quản lý, vậy ai sẽ kiểm soát được dòng tiền đi qua cửa này?
 
Khó "thông" vốn cho DN
 
Nợ xấu "ngáng chân", nợ xấu như "cục máu đông"... làm nghẽn tín dụng chảy vào sản xuất. Mọi thông tin đều khiến cho người ta có cảm giác, việc thành lập công ty mua bán nợ với mục tiêu mua lại nợ xấu NH là giải pháp duy nhất để "thông" vốn cho nền kinh tế. Nhưng không có gì đảm bảo rằng sau khi mua nợ xấu, các NH sẽ bơm vốn vào nền kinh tế. Trong khi có nhiều yếu tố cho thấy, ngay cả khi được "làm sạch" bảng tín dụng, các DN cũng khó tiếp cận được tín dụng của hệ thống NH với lãi suất rẻ. Bởi rõ ràng, một DN bị "án treo" nợ xấu, sau khi mua nợ rồi, NH nào dám cho DN đó vay nữa? Việc chắc chắn nhất trong chuyện này là các NH được lợi bởi rủi ro đã được nhà nước gánh thay. Đó là chưa kể, về nguyên tắc, khi NH cho DN vay, vẫn phải đáp ứng các yêu cầu, điều kiện vay. Mà ở thời điểm hiện tại, không phải là NH vẫn khẳng định, họ sẵn sàng cho vay với các hồ sơ đạt chuẩn? Điều đó một lần nữa khẳng định, việc thành lập công ty nợ xấu thực chất không giải quyết được vấn đề thông vốn từ NH tới DN mà chỉ làm lợi cho các NH mà thôi.
 
Các NH vẫn đang lãi lớn, tại sao không để họ lấy lợi nhuận ra để cân đối lại nợ xấu? Tại sao nhà nước lại phải đứng ra gánh phần rủi ro, phần yếu kém cho các NH? Tất cả các hệ lụy, các rủi ro và những câu hỏi phải được trả lời rõ ràng trước khi tiến hành thành lập công ty mua bán nợ xấu NH.
 
Để xử lý nợ xấu, Trung Quốc đã lập ra các công ty mua bán nợ là công ty quản lý tài sản (AMC) chỉ mua nợ của DN nhà nước. Vì hằng năm các ACM phải trả lãi cho các trái phiếu mà họ phát hành nên là trong 2-3 năm đầu hoạt động, các ACM không còn tiền mặt để chi trả. Nhiều chuyên gia phân tích NH tại Trung Quốc cho rằng, NH Trung ương Trung Quốc (PBOC) sau đó đã tăng các khoản cho vay cho các ACM để họ có tiền trả lãi. Như vậy, ngoài số tiền được chuyển giao lúc đầu thì hằng năm còn phát sinh thêm dòng tiền trả lãi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lạm phát nếu như PBOC không cân đối được dòng tiền hút vào thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vì thông tin về các ACM là không minh bạch nên không ai biết được PBOC bơm ra bao nhiêu tiền cho họ.
 
Theo Nguyên Hằng
Thanh niên
 

 


Lãi suất tiền gửi còn 9%/năm: Gửi tiết kiệm vẫn an toàn nhất

Ngày đăng : 11/06/2012 - 8:42 AM

 

Giá USD lại ổn định, thị trường vàng cũng không có nhiều biến động, bất động sản đóng băng… Vì vậy, người dân gửi tiết kiệm lấy lãi 9% vẫn là an toàn nhất và tốt hơn cả.
 
Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có Thông tư 19 về trần lãi suất tiền gửi mới, tuy nhiên thị trường gửi-vay không có nhiều biến động.
 
Hạ lãi suất gây bất ngờ
 
Ngày 11-6, lãi suất tiền gửi còn 9%, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng VN còn 13%. Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính NH, việc NHNN giảm hẳn 2% lãi suất đã gây ngạc nhiên trong giới tài chính, bởi theo lộ trình dự tính thì mỗi quý sẽ giảm 1% lãi suất. Từ giờ đến cuối năm vẫn còn hai quý, nghĩa là lãi suất còn hạ nữa.
 
Ông cho rằng “nền kinh tế hiện gặp khó khăn, chi phí đầu vào của DN cao. NHNN cho rằng hạ lãi suất sẽ cứu được DN. Việc mạnh tay hạ lãi suất thể hiện sự quyết tâm và kỳ vọng của NHNN”.
 
Theo TS Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đúng theo lộ trình sẽ giảm mỗi quý 1% nhưng CPI tháng 5 lại giảm rất mạnh, buộc lòng NHNN phải mạnh tay hạ lãi suất để phù hợp với điều kiện thực tế.
 
Theo ghi nhận tại một số NH, nhiều khách hàng đã tranh thủ đáo hạn sổ tiết kiệm trước ngày 11-6 để được hưởng lãi suất cao. Trước đó, một số NH đã tư vấn cho người dân nên gửi kỳ hạn dài, bởi thế việc đáo hạn trong những ngày qua không nhiều. Một số NH không làm thêm ngày cuối tuần, khác với các lần hạ lãi suất tháng 4, tháng 5.
 
Bà Nguyễn Thị Cúc (quận Tân Bình) cho biết: “Lãi suất 9% bây giờ chỉ bằng một nửa so với lãi suất một năm trước. Vì vậy chẳng còn mấy đồng lãi. Nhưng rút tiền tiết kiệm ra thì không biết làm gì sinh lời nên tôi cứ gửi NH tiếp đi đã”.
 
Việc giảm lãi suất còn 9% liệu có làm giảm vốn huy động vào các NH? Ông Hiếu cho rằng cần thêm vài ngày nữa mới có hiệu ứng rõ rệt. Hy vọng việc giảm lãi không tạo ra những biến động xấu cho thị trường. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một dòng tiền sẽ chuyển hướng, đổ vào thị trường chứng khoán, vàng hoặc USD.
 
Ông Ngoạn thì cho rằng thị trường chứng khoán tăng nhưng đâu phải tất cả cổ phiếu đều tăng, vẫn có những mã giảm. Ngay cả cổ phiếu hôm nay tăng nhưng mai giảm cũng là chuyện rất bình thường, không phải ai cũng biết chơi chứng khoán. Giá USD lại ổn định, thị trường vàng cũng không có nhiều biến động, bất động sản đóng băng… Vì vậy, người dân gửi tiết kiệm lấy lãi 9% vẫn là an toàn nhất và tốt hơn cả.
 
Có trần làm méo mó
 
Theo ông Hiếu, việc áp trần lãi suất đang tạo tâm lý không tốt cho người gửi tiền lẫn người vay tiền. Cụ thể, người gửi tiền cứ muốn lãi suất cao hơn mức trần. DN đi vay cứ muốn lãi suất thấp hơn mức trần. Thế nhưng chỉ có một mức trần đó để áp khiến cả hai đối tượng này có cảm giác không thoải mái về lãi suất. Điều này tạo nên sự méo mó của thị trường hiện nay.
 
“Phải nhanh chóng tự do hóa lãi suất, khi thả nổi lãi suất hai đầu, cung và cầu sẽ gặp nhau ở một điểm là lãi suất bình quân. Như vậy mới thỏa mãn được mong muốn của người gửi và của NH” - ông Hiếu nói.
 
Theo TS Ngoạn, trước đây chúng ta đã từng không có trần lãi suất. Thế nhưng sau một thời gian thả nổi thì thị trường quá hỗn loạn. Bởi thế NHNN đã buộc lòng phải áp dụng trần lãi suất. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, thanh khoản của hệ thống NH ngày càng tốt hơn, nợ xấu cũng sớm được giải quyết thì sắp tới cũng nên bỏ trần lãi suất.
 
Liệu bỏ trần lãi suất thì thị trường có lại “quá hỗn loạn” nữa hay không? Ông Hiếu phân tích rằng trước đây chúng ta tự do lãi suất, sau đó một vài NH tăng lãi suất khiến nhiều NH khác “đua” theo. Thấy thị trường lãi cứ tăng hoài, chúng ta áp trần lãi suất. Nếu chúng ta cứ kiên trì tự do lãi suất thì bản thân thị trường sẽ phải tự điều tiết. NH cứ cho vay 20% mãi thì DN nào dám vay, tự NH phải điều chỉnh giảm lãi chứ. “Chúng ta phải kiên trì thì lãi suất sẽ theo chiều đi xuống chứ không tăng lên” - ông Hiếu nhấn mạnh.
 
Theo Yên Trang
 
PLTP
 


 

Tin mới cập nhật