Mô hình nào cho công ty mua bán nợ xấu?

Ngày đăng : 14/06/2012 - 10:47 AM

 

Với quy mô nợ xấu trong hệ thống tín dụng hiện nay, rất cần thành lập một công ty mua bán nợ có đủ tiềm lực để xử lý.

Vấn đề là công ty này sẽ hoạt động với mô hình nào và bằng nguồn tài chính từ đâu?

Giải pháp thành lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM liệu có phải là giải pháp tốt để giúp hệ thống NHTM xử lý các khoản nợ xấu? Để có câu trả lời phù hợp, chúng ta hãy xem xét lại tình hình xử lý nợ xấu trên thị trường và các giải pháp hiện có.

Hiện trạng xử lý nợ xấu ở Việt Nam

Hiện nay, các khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng (TCTD) được xử lý bằng hai cách: cách 1 là bán đấu giá các tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu đã xử lý; cách 2 là bán nợ xấu cho các TCTD khác hoặc các công ty quản lý tài sản (AMC).

Đối với cách 1, việc bán đấu giá mất rất nhiều thời gian do TCTD phải hoàn thành nhiều thủ tục pháp lý, định giá tài sản, bán đấu giá… Mỗi khi cần bán nợ hoặc bán tài sản siết nợ, TCTD phải thành lập hội đồng xử lý nợ và còn phải mất nhiều công sức hơn để tìm kiếm người mua, chào bán với giá hợp lý để đảm bảo TCTD không bị thiệt hại.

Đối với cách 2, về bản chất, khi các khoản nợ xấu được mua bán giữa các TCTD hoặc qua công ty AMC thì nợ xấu vẫn nằm trong hệ thống ngân hàng nhưng dưới hình thức khác, vì công ty AMC là công ty con, công ty trực thuộc của TCTD. Khi các TCTD thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính thì những khoản nợ xấu này vẫn nằm trong bảng cân đối kế toán hợp nhất, nhưng dưới một tên gọi khác, ví dụ như là tài sản Có khác.

Như vậy, có thể thấy, cách xử lý đối với nợ xấu và tài sản đảm bảo/tài sản liên quan đến nợ xấu đã xử lý của các TCTD hiện nay thiếu hẳn định hướng và mang tính tự phát. Nó chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề của từng TCTD, hơn là một giải pháp tổng thể cho nền kinh tế nói chung và cho hệ thống ngân hàng nói riêng. Ngoài ra, cơ chế hoạt động như vậy không tạo ra một thị trường mua bán nợ xấu chuyên nghiệp.

Vấn đề tiếp theo là vì sao đã có công ty mua bán nợ (DATC) thuộc Bộ Tài chính, nhưng vẫn nêu ý tưởng thành lập công ty mua bán nợ của NHNN? Đây là một vấn đề không dễ lý giải, vì nếu xét theo chức năng kinh doanh, công ty mua bán nợ theo ý tưởng của NHNN sẽ giống đến 90% chức năng của DATC. Tuy nhiên, có một số điểm giải thích cho vấn đề này.

Thứ nhất, DATC là DNNN, phạm vi hoạt động không chỉ gói gọn trong hệ thống NHTM mà còn của cả nền kinh tế, nhưng tiềm lực của DATC lại khá hạn chế so với quy mô các khoản nợ xấu trong hệ thống tín dụng hiện nay. Trong khi đó, quy trình từ khi mua lại tài sản xấu, tái cấu trúc và khai thác tài sản loại này để bán lại sinh lời là rất phức tạp. Không phải tất cả các giao dịch tái cấu trúc đều thành công. Theo tỷ lệ mà các quỹ đầu tư mạo hiểm thực hiện đầu tư vào việc mua lại nợ xấu và các tài sản liên quan thì chỉ có khoảng 30% giao dịch là thực hiện tái cấu trúc thành công. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công 30% có khả năng tạo ra lợi nhuận đủ lớn để bù đắp cho các thương vụ thất bại và đủ hấp dẫn các NĐT để tạo ra thị trường mua bán nợ xấu trị giá nhiều tỷ USD ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương như hiện nay.

Thứ hai, bản chất của việc mua bán nợ xấu là hoạt động kinh doanh mang tính mạo hiểm, có khả năng mang lại lợi nhuận cao trên cơ sở rủi ro cao. Trong khi đó, theo cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, cơ chế quản lý, giám sát của DATC với tư cách là DNNN, sẽ rất khó để DATC chấp nhận các hoạt động mang tính mạo hiểm kiểu này. Thực tế cho thấy, nếu như một khoản nợ hoặc tài sản đảm bảo của khoản nợ đó, có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, có giá bán dễ dàng tham chiếu và đáng tin cậy thì người vay đã tự xử lý để thu hồi tiền và trả nợ cho ngân hàng, chứ không để ngân hàng siết nợ.

Từ hai nguyên nhân trên, có thể thấy một mình DATC chưa thể đảm nhiệm việc xử lý các khoản nợ xấu của hệ thống NHTM. Trong khi đó, việc giải tỏa các khoản nợ xấu đang tồn đọng tại các TCTD là nhu cầu cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế suy thoái, nhiều DN phá sản, không còn khả năng trả nợ cho ngân hàng. Vì thế, giải pháp mà NHNN đưa ra là thành lập một công ty mua bán nợ được xem là kịp thời trong thời điểm hiện tại.

Mô hình nào?

Thứ nhất, đó phải là công ty cổ phần mà Nhà nước là một cổ đông lớn và có sự tham gia của các TCTD. Việc tổ chức công ty mua bán nợ theo mô hình này rất quan trọng, cho phép công ty có thể chấp nhận rủi ro từ việc mua nợ xấu, được thuê các chuyên gia tái cấu trúc DN tham gia cơ cấu lại DN và có cơ chế quản trị DN lành mạnh để tránh các hiện tượng tiêu cực, chi phối hoặc xin - cho mà dư luận đã đặt ra từ khi có đề xuất thành lập công ty mua bán nợ.

Vai trò dẫn dắt và định hướng của Nhà nước trong giai đoạn đầu là cần thiết để giúp công ty ổn định mục tiêu và chiến lược kinh doanh. Đến thời điểm thích hợp, Nhà nước có thể thoái vốn dần khỏi công ty.

Thứ hai, công ty mua bán nợ phải có khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn để có thể mua lại các khoản nợ xấu. Ở các nước, các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng tham gia rất tích cực trong việc đầu tư vào các công ty hay các quỹ có tính chất tương tự như công ty mua bán nợ theo đề xuất của NHNN và họ có các nguồn vốn dài hạn để đầu tư mua lại các khoản nợ, các tài sản xấu này. Với tình hình và bản chất nguồn vốn ở Việt Nam là phần lớn mang tính ngắn hạn, đây có lẽ là một thử thách lớn đối với công ty mua bán nợ để có thể hoạt động ổn định và bền vững.

Thứ ba, công ty mua bán nợ không những phải có năng lực tài chính mà phải có đội ngũ chuyên gia có khả năng tham gia trực tiếp tái cấu trúc DN, hoặc phải có cơ chế thuê các chuyên gia tư vấn hàng đầu để tái cấu trúc DN. Bên cạnh đó, đội ngũ thẩm định, đánh giá tài sản… để hỗ trợ cho các hoạt động của công ty cũng cần được chuyên nghiệp hóa.

Công ty có thể xem xét việc thuê tư vấn bên ngoài để thực hiện các nhiệm vụ trên. Trong trường hợp đó, cơ chế thuê tư vấn, tổ chức thực hiện, bảo mật thông tin… phải được thực hiện hết sức nghiêm túc và chặt chẽ.


Thứ tư, một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của công ty mua bán nợ là phương pháp hạch toán kế toán và định giá tài sản vì thông thường, khi thực hiện mua tài sản xấu từ các TCTD, giá mua có thể rất khác so với giá trị thật của tài sản. Vì vậy, phương pháp ghi nhận nên được đo lường khi mua như thế nào và sau đó ghi nhận tiếp theo ra sao, ví dụ tăng giá, giảm giá trong các kỳ kế toán là một vấn đề cần được xem xét để đảm bảo hoạt động tài chính của công ty mua bán nợ là minh bạch và rõ ràng.

Có thể nói, sự tham gia của công ty mua bán nợ sẽ bổ sung thêm giải pháp thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM. Có thể hình dung công ty mua bán nợ sẽ giúp giải quyết các vấn đề sau:

* Giúp các TCTD xử lý nhanh các tài sản xấu để thu hồi nguồn tiền. TCTD không phải dùng nguồn lực để theo đuổi các vụ thanh lý tài sản, bán nợ… như trước đây để tập trung cho hoạt động kinh doanh chính;

* Tách các tài sản xấu của các TCTD ra khỏi hệ thống ngân hàng và công ty mua bán nợ thực hiện các biện pháp tái cơ cấu dễ dàng hơn, ví dụ có thể thành lập các pháp nhân mới, thành lập các liên doanh để xử lý và khai thác tài sản. Đây là những nghiệp vụ mà TCTD không dễ dàng thực hiện do bị hạn chế về phạm vi hoạt động, theo đó, các TCTD chỉ tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh ngân hàng và không tập trung vào các lĩnh vực khác ngoài một số lĩnh vực rất hạn chế mà Luật Các TCTD cho phép;

* Giữ vai trò điều tiết trong trường hợp thị trường có biến động;

* Bên cạnh NHNN là người cho vay cuối cùng, công ty mua bán nợ cũng có thể được coi là một định chế có thể mua lại tài sản của các TCTD trong trường hợp TCTD có nhu cầu bán để giải quyết nhu cầu thanh khoản hay thu hẹp hoạt động kinh doanh;

* Thu hút các khoản đầu tư dài hạn của các tổ chức có nguồn vốn dài hạn, ví dụ từ các công ty bảo hiểm... do đặc thù hoạt động của công ty mua bán nợ là đầu tư vào các tài sản dài hạn.

Vậy nhưng, có một câu hỏi lớn đặt ra là, công ty mua bán nợ của NHNN phải hoạt động như thế nào để đảm bảo thành công?

Theo Văn Tấn
ĐTCK

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Gánh nợ xấu ngân hàng: Khó kiểm soát in tiền

Ngày đăng : 12/06/2012 - 9:53 AM

 

 

Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, việc mua bán xử lý nợ xấu luôn gắn với quá trình in tiền.
 
Vì vậy, việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đề xuất thành lập công ty mua bán nợ đang khiến dư luận lo ngại và đặt câu hỏi, ai sẽ kiểm soát dòng tiền "đi" qua "cửa" mua nợ xấu.
 
Lỗ, lãi ai chịu?
 
Việc mở một công ty mua bán nợ để mua nợ xấu NH, đặc biệt là do NHNN đứng ra thành lập và quản lý đối mặt với nhiều rủi ro. Mà tình hình hiện tại cho thấy, khả năng này khá rõ ràng. Bởi trên thực tế, công ty mua bán nợ của nhà nước đã có cả gần chục năm nay, đó là Công ty Mua bán nợ và xử lý tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài chính ra đời từ 2003 với vốn điều lệ 2.000 tỉ đồng. DATC có vai trò đứng ra mua lại nợ, tiếp nhận và xử lý tại các DN nhà nước, thậm chí kể cả tư nhân. Nhưng hoạt động của DATC như thế nào trong suốt thời gian qua, không ai biết. Chỉ đến khi công ty này đứng ra mua nợ của Công ty CP thủy sản Bình An, nhiều người mới biết sự tồn tại của nó. Nhưng DATC đã thực hiện bao nhiêu vụ mua bán nợ, các thương vụ mua nợ trước đó được thực hiện thế nào, cơ chế bán nợ ra sao? Không có nhiều thông tin.
 
Với hiệu quả như phân tích trên, khả năng giao cho Bộ Tài chính quản lý công ty mua bán nợ (để giám sát chéo) là rất khó. Và khi không sử dụng công ty mua bán nợ sẵn có của Bộ Tài chính, thì công ty mua bán nợ chỉ "chuyên" về mua nợ xấu NH gần như chắc chắn sẽ do NHNN thành lập và quản lý. Một số ý kiến cho rằng, đây là lựa chọn phù hợp hơn nếu nhìn ở góc độ cân đối nguồn tài chính. Bởi NHNN có nhiều nguồn vốn như từ tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền vượt dự trữ bắt buộc của các NHTM; tiền phát hành tín phiếu, thậm chí là một phần nhỏ từ… in thêm tiền nếu thấy cần thiết.
 
Nhưng đây chỉ là bề nổi mà ẩn sâu sau đó là rất nhiều rủi ro và hệ lụy. Vì dù sử dụng hay thực hiện kỹ thuật nào để mua nợ, công ty mua bán nợ cũng phải phát hành trái phiếu có sự bảo lãnh của NHNN để cấn trừ nợ. Trong trường hợp có tiền mặt từ ngân sách nhà nước để bỏ ra thành lập công ty, thì phần tiền còn lại để mua nợ phải được lấy từ hoán đổi trái phiếu. Câu hỏi đặt ra là, tiền lãi phát sinh mỗi năm sẽ lấy ở đâu ra để trả. Giả sử 90%/tổng giá trị mua nợ là trái phiếu phát hành với lãi suất 10% thì tiền lãi mỗi năm cũng lên tới 9.000 tỉ đồng (90.000 tỉ đồng x 10%= 9.000 tỉ đồng). Còn nếu 100% là trái phiếu thì số lãi mỗi năm lên tới 10.000 tỉ đồng. Số tiền này lấy từ nguồn nào? Như đã phân tích ở các bài trước, nợ xấu của các NH chủ yếu là bất động sản và chứng khoán. 
 
Với bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới như hiện nay, chắc chắn trong vài năm tới, tài sản mua nợ không dễ bán đi. Nghĩa là thời gian trả lãi sẽ kéo dài, số tiền trả lãi nhiều hơn. Đó là chưa tính đến trường hợp công ty này thua lỗ (nguy cơ rất lớn), NHNN sẽ phải in tiền để tài trợ. Cũng có nghĩa là một lượng tiền sẽ được đẩy vào nền kinh tế, có thể gây lạm phát, gây méo mó chính sách tiền tệ. Gánh chịu hậu quả nhiều nhất trong việc này chính là người dân và DN. Như vậy, đối tượng là mục tiêu để "cứu" của đề xuất này hoàn toàn có thể trở thành nạn nhân. Quan trọng hơn, cơ quan in tiền lại trực tiếp quản lý, điều hành công ty mua bán nợ và mua lại nợ xấu của chính các NH do mình quản lý, vậy ai sẽ kiểm soát được dòng tiền đi qua cửa này?
 
Khó "thông" vốn cho DN
 
Nợ xấu "ngáng chân", nợ xấu như "cục máu đông"... làm nghẽn tín dụng chảy vào sản xuất. Mọi thông tin đều khiến cho người ta có cảm giác, việc thành lập công ty mua bán nợ với mục tiêu mua lại nợ xấu NH là giải pháp duy nhất để "thông" vốn cho nền kinh tế. Nhưng không có gì đảm bảo rằng sau khi mua nợ xấu, các NH sẽ bơm vốn vào nền kinh tế. Trong khi có nhiều yếu tố cho thấy, ngay cả khi được "làm sạch" bảng tín dụng, các DN cũng khó tiếp cận được tín dụng của hệ thống NH với lãi suất rẻ. Bởi rõ ràng, một DN bị "án treo" nợ xấu, sau khi mua nợ rồi, NH nào dám cho DN đó vay nữa? Việc chắc chắn nhất trong chuyện này là các NH được lợi bởi rủi ro đã được nhà nước gánh thay. Đó là chưa kể, về nguyên tắc, khi NH cho DN vay, vẫn phải đáp ứng các yêu cầu, điều kiện vay. Mà ở thời điểm hiện tại, không phải là NH vẫn khẳng định, họ sẵn sàng cho vay với các hồ sơ đạt chuẩn? Điều đó một lần nữa khẳng định, việc thành lập công ty nợ xấu thực chất không giải quyết được vấn đề thông vốn từ NH tới DN mà chỉ làm lợi cho các NH mà thôi.
 
Các NH vẫn đang lãi lớn, tại sao không để họ lấy lợi nhuận ra để cân đối lại nợ xấu? Tại sao nhà nước lại phải đứng ra gánh phần rủi ro, phần yếu kém cho các NH? Tất cả các hệ lụy, các rủi ro và những câu hỏi phải được trả lời rõ ràng trước khi tiến hành thành lập công ty mua bán nợ xấu NH.
 
Để xử lý nợ xấu, Trung Quốc đã lập ra các công ty mua bán nợ là công ty quản lý tài sản (AMC) chỉ mua nợ của DN nhà nước. Vì hằng năm các ACM phải trả lãi cho các trái phiếu mà họ phát hành nên là trong 2-3 năm đầu hoạt động, các ACM không còn tiền mặt để chi trả. Nhiều chuyên gia phân tích NH tại Trung Quốc cho rằng, NH Trung ương Trung Quốc (PBOC) sau đó đã tăng các khoản cho vay cho các ACM để họ có tiền trả lãi. Như vậy, ngoài số tiền được chuyển giao lúc đầu thì hằng năm còn phát sinh thêm dòng tiền trả lãi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lạm phát nếu như PBOC không cân đối được dòng tiền hút vào thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vì thông tin về các ACM là không minh bạch nên không ai biết được PBOC bơm ra bao nhiêu tiền cho họ.
 
Theo Nguyên Hằng
Thanh niên
 

 


Lãi suất tiền gửi còn 9%/năm: Gửi tiết kiệm vẫn an toàn nhất

Ngày đăng : 11/06/2012 - 8:42 AM

 

Giá USD lại ổn định, thị trường vàng cũng không có nhiều biến động, bất động sản đóng băng… Vì vậy, người dân gửi tiết kiệm lấy lãi 9% vẫn là an toàn nhất và tốt hơn cả.
 
Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có Thông tư 19 về trần lãi suất tiền gửi mới, tuy nhiên thị trường gửi-vay không có nhiều biến động.
 
Hạ lãi suất gây bất ngờ
 
Ngày 11-6, lãi suất tiền gửi còn 9%, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng VN còn 13%. Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính NH, việc NHNN giảm hẳn 2% lãi suất đã gây ngạc nhiên trong giới tài chính, bởi theo lộ trình dự tính thì mỗi quý sẽ giảm 1% lãi suất. Từ giờ đến cuối năm vẫn còn hai quý, nghĩa là lãi suất còn hạ nữa.
 
Ông cho rằng “nền kinh tế hiện gặp khó khăn, chi phí đầu vào của DN cao. NHNN cho rằng hạ lãi suất sẽ cứu được DN. Việc mạnh tay hạ lãi suất thể hiện sự quyết tâm và kỳ vọng của NHNN”.
 
Theo TS Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đúng theo lộ trình sẽ giảm mỗi quý 1% nhưng CPI tháng 5 lại giảm rất mạnh, buộc lòng NHNN phải mạnh tay hạ lãi suất để phù hợp với điều kiện thực tế.
 
Theo ghi nhận tại một số NH, nhiều khách hàng đã tranh thủ đáo hạn sổ tiết kiệm trước ngày 11-6 để được hưởng lãi suất cao. Trước đó, một số NH đã tư vấn cho người dân nên gửi kỳ hạn dài, bởi thế việc đáo hạn trong những ngày qua không nhiều. Một số NH không làm thêm ngày cuối tuần, khác với các lần hạ lãi suất tháng 4, tháng 5.
 
Bà Nguyễn Thị Cúc (quận Tân Bình) cho biết: “Lãi suất 9% bây giờ chỉ bằng một nửa so với lãi suất một năm trước. Vì vậy chẳng còn mấy đồng lãi. Nhưng rút tiền tiết kiệm ra thì không biết làm gì sinh lời nên tôi cứ gửi NH tiếp đi đã”.
 
Việc giảm lãi suất còn 9% liệu có làm giảm vốn huy động vào các NH? Ông Hiếu cho rằng cần thêm vài ngày nữa mới có hiệu ứng rõ rệt. Hy vọng việc giảm lãi không tạo ra những biến động xấu cho thị trường. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một dòng tiền sẽ chuyển hướng, đổ vào thị trường chứng khoán, vàng hoặc USD.
 
Ông Ngoạn thì cho rằng thị trường chứng khoán tăng nhưng đâu phải tất cả cổ phiếu đều tăng, vẫn có những mã giảm. Ngay cả cổ phiếu hôm nay tăng nhưng mai giảm cũng là chuyện rất bình thường, không phải ai cũng biết chơi chứng khoán. Giá USD lại ổn định, thị trường vàng cũng không có nhiều biến động, bất động sản đóng băng… Vì vậy, người dân gửi tiết kiệm lấy lãi 9% vẫn là an toàn nhất và tốt hơn cả.
 
Có trần làm méo mó
 
Theo ông Hiếu, việc áp trần lãi suất đang tạo tâm lý không tốt cho người gửi tiền lẫn người vay tiền. Cụ thể, người gửi tiền cứ muốn lãi suất cao hơn mức trần. DN đi vay cứ muốn lãi suất thấp hơn mức trần. Thế nhưng chỉ có một mức trần đó để áp khiến cả hai đối tượng này có cảm giác không thoải mái về lãi suất. Điều này tạo nên sự méo mó của thị trường hiện nay.
 
“Phải nhanh chóng tự do hóa lãi suất, khi thả nổi lãi suất hai đầu, cung và cầu sẽ gặp nhau ở một điểm là lãi suất bình quân. Như vậy mới thỏa mãn được mong muốn của người gửi và của NH” - ông Hiếu nói.
 
Theo TS Ngoạn, trước đây chúng ta đã từng không có trần lãi suất. Thế nhưng sau một thời gian thả nổi thì thị trường quá hỗn loạn. Bởi thế NHNN đã buộc lòng phải áp dụng trần lãi suất. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, thanh khoản của hệ thống NH ngày càng tốt hơn, nợ xấu cũng sớm được giải quyết thì sắp tới cũng nên bỏ trần lãi suất.
 
Liệu bỏ trần lãi suất thì thị trường có lại “quá hỗn loạn” nữa hay không? Ông Hiếu phân tích rằng trước đây chúng ta tự do lãi suất, sau đó một vài NH tăng lãi suất khiến nhiều NH khác “đua” theo. Thấy thị trường lãi cứ tăng hoài, chúng ta áp trần lãi suất. Nếu chúng ta cứ kiên trì tự do lãi suất thì bản thân thị trường sẽ phải tự điều tiết. NH cứ cho vay 20% mãi thì DN nào dám vay, tự NH phải điều chỉnh giảm lãi chứ. “Chúng ta phải kiên trì thì lãi suất sẽ theo chiều đi xuống chứ không tăng lên” - ông Hiếu nhấn mạnh.
 
Theo Yên Trang
 
PLTP
 


Hạ trần lãi suất huy động về 9%/năm

Ngày đăng : 08/06/2012 - 8:54 AM

 

 

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho biết sẽ hạ trần lãi suất huy động VND về 9%/năm từ ngày 11/6 tới.
 
Đây là thông tin được Thống đốc Bình đưa ra khi giải trình trước diễn đàn Quốc hội chiều nay (7/6).
 
Thống đốc cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ và được chấp thuận tiếp tục hạ trần lãi suất huy động VND. Theo đó, từ ngày 11/6 này, trần lãi suất huy động VND sẽ giảm một bước 2%/năm, từ 11%/năm hiện nay xuống còn 9%/năm.
 
Thống đốc Bình không nêu chi tiết việc áp dụng các kỳ hạn, nhưng có thể dự tính mức trần 9%/năm nói trên sẽ áp cho các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên; còn các kỳ hạn dưới 1 tháng có thể sẽ chỉ còn 1%/năm, nếu tính theo bước giảm lần này.
 
Minh Đức 
Vneconomy
 

 


Ai là người cuối cùng gánh nợ xấu?

Ngày đăng : 07/06/2012 - 10:45 AM

 

Nợ xấu đang gây ách tắc dòng vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác dụng và đặc biệt có thể tác động làm phá sản những doanh nghiệp lớn.
 
Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Và để giải quyết nợ xấu, dù bằng cách nào, rốt cuộc ngân sách cũng phải bỏ tiền ra. Vấn đề là ai được hưởng lợi nhiều nhất và liệu có ai phải chịu trách nhiệm về gánh nặng tăng thêm của ngân sách?
 
Gần đây, những khoản nợ mười mấy ngàn tỉ đồng của một ngân hàng nọ đang được không ít tổ chức tín dụng để ý và đánh tiếng. Họ muốn mua lại vì chúng được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là một số khu đất “vàng”, trung tâm thương mại, tòa nhà văn phòng, căn hộ ở trung tâm một thành phố lớn. Quá trình thảo luận tập trung vào giá khi ngân hàng chủ nợ không muốn bán rẻ, còn bên mua thì yêu cầu chiết khấu càng nhiều càng tốt.
 
Mờ ảo khối nợ
 
Không phải ngẫu nhiên mà trong cuộc họp với nhóm 14 ngân hàng thương mại lớn (G-14) vào tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt lên bàn chủ trương thành lập công ty mua bán nợ quốc doanh với số nợ có thể giao dịch lên tới 100.000 tỉ đồng. Chưa rõ thời điểm hoạt động, ai góp vốn và cơ chế giao dịch như thế nào, nhưng chủ trương khai sinh một pháp nhân như vậy cho thấy sự bức thiết phải tháo gỡ ngay khối nợ xấu trong nền kinh tế. Nợ xấu đang gây ách tắc dòng vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác dụng và đặc biệt có thể tác động làm phá sản những doanh nghiệp lớn.
 
Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính chỉ ra các tập đoàn, tổng công ty đang nợ ngân hàng khoảng 415.000 tỉ đồng. Tuy nhiên nợ và nợ quá hạn khác nhau. Tỷ lệ vay nợ cao, gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu là thực trạng chung của khối quốc doanh khi mà ngân sách không cấp đủ vốn cho doanh nghiệp, trong khi các tập đoàn “bành trướng” quá nhanh vào nhiều lĩnh vực.
 
Cơ quan có thể đánh giá tương đối chính xác về nợ và nợ xấu là NHNN. Tiếc rằng tỷ lệ nợ xấu mà NHNN công bố luôn khiến người ta phải hoài nghi. Tỷ lệ nợ xấu gần nhất được NHNN đưa ra là khoảng 3,2-3,6% tổng dư nợ, chênh lệch khá xa mức 13% mà Tổ chức định mức tín nhiệm Fitch công bố năm ngoái. Còn so với mức chừng 10% mà các chuyên gia tài chính khẳng định, nó thấp hơn ba lần.
 
Hiện tại dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng ước 2,5 triệu tỉ đồng. Giả sử tỷ lệ nợ xấu 10%, nó tương đương 250.000 tỉ đồng hay 12 tỉ đô la Mỹ. Số nợ xấu này hầu như đang nằm im, chỉ nhúc nhích trong một số trường hợp mua bán nợ thành công. Muốn giải quyết nó, trước hết phải làm nó chuyển động. Mặc dù NHNN vừa ban hành Văn bản 2871 ngày 16-5-2012 cho phép các tổ chức tín dụng mua bán nợ, nhưng sự khởi động tỏ ra chậm chạp vì thiếu người khởi xướng.
 
Cũ và mới
 
Trong lịch sử non trẻ của ngành ngân hàng, hẳn nhiều người chưa quên giai đoạn sóng gió các vụ án Tamexco, Minh Phụng - Epco. Ngày đó, số nợ xấu của ngân hàng cũng lớn so với tổng dư nợ, nhưng quy mô không thể so với bây giờ. Và cái khác căn bản là giá trị của tài sản thế chấp bất động sản chưa ở mức “bong bóng” như hiện tại.
 
Tài sản đảm bảo, chủ yếu là đất và quyền sử dụng đất, của Minh Phụng - Epco ở thời điểm thế chấp, đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng 5-6 năm sau đó. “Cơn sốt” bất động sản khi ấy còn sơ khai. Nay thì khác. Giá đất đã tăng chóng mặt trong vòng năm năm qua và dường như thời kỳ đỉnh cao của nó đã qua. Những khu đất được định giá thấp hơn giá thị trường và chỉ được cho vay bằng 50-70% giá trị ở thời điểm vay 3-4 năm trước, hiện khó mà chuyển nhượng bằng với mức định giá của ngân hàng. Sự ì ạch của việc phát mãi tài sản nhằm thu hồi vốn của ngân hàng xuất phát từ đây. Đúng là thủ tục phát mãi phức tạp. Tuy vậy sự phức tạp đó không mang tính quyết định. Người ta e ngại chủ yếu giá chuyển nhượng các tài sản thấp hơn giá trị khoản vay.
 
Nói ngắn gọn, để thanh lý nợ xấu, phải có ai đó gánh phần lỗ lã, hoặc ngân hàng, hoặc người vay. Tốc độ xử lý nợ phụ thuộc vào mức độ chiết khấu so với giá thị trường. Có những tổ chức “kền kền” sẵn sàng vào cuộc, bởi nghề của họ là đánh hơi các dấu hiệu của “xác chết”.
 
Có hai cách để thanh lý nợ xấu: thứ nhất là mua đứt bán đoạn trên cơ sở thương lượng giữa các tổ chức “kền kền” và các ngân hàng chủ nợ. Cách này cho kết quả nhanh và dứt điểm. Nó sẽ buộc những ngân hàng bán nợ hạch toán ngay một/nhiều khoản lỗ và dĩ nhiên ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng. Để “cứu” những ngân hàng lỗ, Nhà nước và các doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác phải vào cuộc. Sẽ lại xuất hiện những biện pháp cũ: tái cấp vốn, góp vốn của những ngân hàng khỏe để hỗ trợ, ưu đãi thuế...
 
Cách thứ hai là Nhà nước bỏ vốn thông qua NHNN vào công ty mua bán nợ và công ty này thông qua mua nợ, trở thành cổ đông của các ngân hàng bán nợ. Khi ngân hàng bán nợ lấy lại phong độ, Nhà nước có thể bán cổ phần của mình, thu hồi vốn. Đây là cách mà nhiều quốc gia đã thực hiện.
 
Rốt cuộc áp dụng cách nào, Nhà nước, mà ở đây là ngân sách, cũng phải bỏ tiền ra. Từ trường hợp xử lý nợ Vinashin ở Habubank dễ dàng nhận ra ngân sách đã phải bỏ tiền ra thông qua ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ba năm cho SHB; cho trích lập dự phòng nợ Vinashin dần từng năm thay vì tiến hành ngay một lúc theo thông lệ quốc tế; cho phép Vinashin phát hành trái phiếu với sự bảo lãnh của Chính phủ để trả một phần nợ.
 
Khi Nhà nước phải bỏ tiền, câu hỏi đi kèm sẽ là ai được hưởng lợi nhiều nhất và liệu có ai phải chịu trách nhiệm về gánh nặng tăng thêm của ngân sách đó không?
 
Theo Lưu Hảo
 
TBKTSG
 


Chưa đầy 1% doanh nghiệp TP HCM được hưởng trần lãi vay

Ngày đăng : 06/06/2012 - 8:56 AM

 

Trong tổng hơn 100.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ của TPHCM, vỏn vẹn 650 đơn vị đã tiếp cận được vốn ưu đãi của ngân hàng trong suốt tháng đầu tiên thực hiện trần lãi suất cho vay với một số lĩnh vực ưu tiên.

Chiều 5/6, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân TP HCM đã có cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước TP HCM, tính đến 29/5, gần một tháng triển khai áp trần lãi vay theo Thông tư 14 của Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc 4 nhóm ưu tiên trên địa bàn TP HCM mới tiếp cận được gần 7.000 tỷ đồng vốn vay từ ngân hàng. Trong đó, 70 doanh nghiệp được vay vốn theo diện ưu đãi phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Khu vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, có 85 doanh nghiệp được tiếp cận vốn vay với dư nợ hơn 887 tỷ. Còn công nghiệp hỗ trợ là trên 181 tỷ đồng dành cho 37 doanh nghiệp. Riêng cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, số doanh nghiệp vừa và nhỏ được giải ngân là 459 đơn vị với nguồn vốn hơn 4.279 tỷ đồng.

Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước TP HCM Nguyễn Ngọc Thắng cho biết thêm, tổng dư nợ của các nhà băng trên địa bàn đến ngày 31/5 đạt 762.200 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước, giảm 0,24% so với cuối năm và tăng 1,58% so với cùng kỳ. Trong đó dư nợ bằng VND đạt 553,103 tỷ đồng, giảm 0,72% so với cuối năm, dư nợ ngoại tệ đạt 209,097 tỷ đồng, tăng 1,05%.

Lý giải sự tăng trưởng tín dụng khá khiêm tốn cho 4 lĩnh vực ưu tiên, Phó giám đốc cho rằng, mặc dù thực hiện đúng chủ trương của Ngân hàng Trung ương nhưng các nhà băng vẫn khó khăn tìm kiếm khách hàng mới vay vốn. Nguyên nhân do hầu hết các doanh nghiệp đều đang trong tình trạng có nợ quá hạn hoặc nợ xấu cao tại các nhà băng. Trong khi đó, hàng tồn kho lớn, doanh nghiệp khó tiêu thụ sản phẩm, lại chưa có phương án kinh doanh hiệu quả. Chỉ số an toàn trong hoạt động doanh nghiệp bị suy giản đáng kể.

Trong khi đó, về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Ngọc Hưng, Phó chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP HCM cho rằng, nguyên nhân là do ngân hàng chọn an toàn về vốn và an toàn về chính sách.

Để minh chứng cho nhận xét của mình, ông Hưng chỉ ra rằng, vì sợ mất vốn nên nhiều nhà băng thường rút ngắn thời gian cho vay, thay vì từ một năm thì chỉ còn 6 tháng khiến doanh nghiệp bị thiếu vốn và không xoay sở kịp. Ngoài ra, hầu hết doanh nghiệp hiện nay đều gặp khó về tài sản thế chấp. Thêm vào đó, với mức lãi suất 14% hiện nay thì đầu tư vẫn không có lời.

Giãi bày nỗi khổ của ngân hàng, ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Á cho biết, ngân hàng không hề “đóng cửa” với doanh nghiệp. Hiện nay, mỗi ngân hàng đều muốn chăm lo khách hàng của mình bằng cách giảm lãi suất để giữ chân khách. "Bởi nếu không làm vậy, nhà băng sẽ bị ngân hàng bạn lôi kéo khách", ông bình nói.

Tuy nhiên, vấn đề hiện nay, theo ông Bình cần phải đưa ra cụ thể doanh nghiệp nào, của hiệp hội nào đang gặp khó khăn khi tiếp cận vốn, và những khó khăn đó là gì...thì nhà băng mới có hướng giải quyết.

Để khơi thông dòng vốn, Tổng giám đốc Eximbank Trương Văn Phước cho rằng, vấn đề đầu tiên là phải tiếp tục giảm lãi suất. Nếu giá lãi suất thấp thì cầu về tiền tệ sẽ tăng. Muốn vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xác lập trần cho vay không chỉ dành cho 4 nhóm mà nên mở rộng ra. Bởi theo ông, hiện nay chỉ áp trần cho 4 đối tượng nên lãi suất không xuống được. Vì vẫn còn có nhiều ngõ ngách để các ngân hàng lách nên lãi suất vẫn cao.

Ngoài ra, Tổng giám đốc Eximbank còn cho rằng, đi đôi với giảm lãi suất phải tìm cách giải quyết cho được bài toán hàng tồn kho. Biện pháp cuối cùng là thành lập công ty mua bán nợ. Khi đó, Việt Nam vừa tẩy được nợ xấu ra khỏi ngân hàng, doanh nghiệp cũng sẽ tiếp cận được vốn vay.

Đánh giá về con số giải ngân gần 7.000 tỷ đồng dành cho doanh nghiệp thuộc 4 nhóm ưu tiên trong gần một tháng qua, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trần Minh Tuấn cho rằng, đây là con số quá khiêm tốn và cần đẩy mạnh tăng trưởng hơn nữa trong những tháng cuối năm.

Theo ông Tuấn, với tình hình lạm phát đang giảm như hiện nay, có thể thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Tổng kết cuộc họp, Chủ tịch UBND TP HCM Lê Hoàng Quân yêu cầu, trong thời gian sớm nhất, các lãnh đạo hiệp hội doanh nghiệp cần nhanh chóng đưa ra danh sách những đơn vị trên địa bàn thành phố đang gặp khó khăn về vốn vay, hàng hóa tồn kho một cách thật cụ thể để trình lên Uỷ ban. "Có như vậy, chúng tôi mới có thể đưa ra hướng giải quyết hiệu quả chứ không nên báo cáo suông. Ngoài ra, từng nhà băng cũng phải đưa ra cam kết cho doanh nghiệp vay vốn trong khả năng của mình", ông Quân nói. 

Theo Lệ Chi

Vnexpress


 

Tin mới cập nhật