Gánh nợ xấu ngân hàng: Khó kiểm soát in tiền

Ngày đăng : 12/06/2012 - 9:53 AM

 

 

Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, việc mua bán xử lý nợ xấu luôn gắn với quá trình in tiền.
 
Vì vậy, việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đề xuất thành lập công ty mua bán nợ đang khiến dư luận lo ngại và đặt câu hỏi, ai sẽ kiểm soát dòng tiền "đi" qua "cửa" mua nợ xấu.
 
Lỗ, lãi ai chịu?
 
Việc mở một công ty mua bán nợ để mua nợ xấu NH, đặc biệt là do NHNN đứng ra thành lập và quản lý đối mặt với nhiều rủi ro. Mà tình hình hiện tại cho thấy, khả năng này khá rõ ràng. Bởi trên thực tế, công ty mua bán nợ của nhà nước đã có cả gần chục năm nay, đó là Công ty Mua bán nợ và xử lý tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài chính ra đời từ 2003 với vốn điều lệ 2.000 tỉ đồng. DATC có vai trò đứng ra mua lại nợ, tiếp nhận và xử lý tại các DN nhà nước, thậm chí kể cả tư nhân. Nhưng hoạt động của DATC như thế nào trong suốt thời gian qua, không ai biết. Chỉ đến khi công ty này đứng ra mua nợ của Công ty CP thủy sản Bình An, nhiều người mới biết sự tồn tại của nó. Nhưng DATC đã thực hiện bao nhiêu vụ mua bán nợ, các thương vụ mua nợ trước đó được thực hiện thế nào, cơ chế bán nợ ra sao? Không có nhiều thông tin.
 
Với hiệu quả như phân tích trên, khả năng giao cho Bộ Tài chính quản lý công ty mua bán nợ (để giám sát chéo) là rất khó. Và khi không sử dụng công ty mua bán nợ sẵn có của Bộ Tài chính, thì công ty mua bán nợ chỉ "chuyên" về mua nợ xấu NH gần như chắc chắn sẽ do NHNN thành lập và quản lý. Một số ý kiến cho rằng, đây là lựa chọn phù hợp hơn nếu nhìn ở góc độ cân đối nguồn tài chính. Bởi NHNN có nhiều nguồn vốn như từ tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền vượt dự trữ bắt buộc của các NHTM; tiền phát hành tín phiếu, thậm chí là một phần nhỏ từ… in thêm tiền nếu thấy cần thiết.
 
Nhưng đây chỉ là bề nổi mà ẩn sâu sau đó là rất nhiều rủi ro và hệ lụy. Vì dù sử dụng hay thực hiện kỹ thuật nào để mua nợ, công ty mua bán nợ cũng phải phát hành trái phiếu có sự bảo lãnh của NHNN để cấn trừ nợ. Trong trường hợp có tiền mặt từ ngân sách nhà nước để bỏ ra thành lập công ty, thì phần tiền còn lại để mua nợ phải được lấy từ hoán đổi trái phiếu. Câu hỏi đặt ra là, tiền lãi phát sinh mỗi năm sẽ lấy ở đâu ra để trả. Giả sử 90%/tổng giá trị mua nợ là trái phiếu phát hành với lãi suất 10% thì tiền lãi mỗi năm cũng lên tới 9.000 tỉ đồng (90.000 tỉ đồng x 10%= 9.000 tỉ đồng). Còn nếu 100% là trái phiếu thì số lãi mỗi năm lên tới 10.000 tỉ đồng. Số tiền này lấy từ nguồn nào? Như đã phân tích ở các bài trước, nợ xấu của các NH chủ yếu là bất động sản và chứng khoán. 
 
Với bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới như hiện nay, chắc chắn trong vài năm tới, tài sản mua nợ không dễ bán đi. Nghĩa là thời gian trả lãi sẽ kéo dài, số tiền trả lãi nhiều hơn. Đó là chưa tính đến trường hợp công ty này thua lỗ (nguy cơ rất lớn), NHNN sẽ phải in tiền để tài trợ. Cũng có nghĩa là một lượng tiền sẽ được đẩy vào nền kinh tế, có thể gây lạm phát, gây méo mó chính sách tiền tệ. Gánh chịu hậu quả nhiều nhất trong việc này chính là người dân và DN. Như vậy, đối tượng là mục tiêu để "cứu" của đề xuất này hoàn toàn có thể trở thành nạn nhân. Quan trọng hơn, cơ quan in tiền lại trực tiếp quản lý, điều hành công ty mua bán nợ và mua lại nợ xấu của chính các NH do mình quản lý, vậy ai sẽ kiểm soát được dòng tiền đi qua cửa này?
 
Khó "thông" vốn cho DN
 
Nợ xấu "ngáng chân", nợ xấu như "cục máu đông"... làm nghẽn tín dụng chảy vào sản xuất. Mọi thông tin đều khiến cho người ta có cảm giác, việc thành lập công ty mua bán nợ với mục tiêu mua lại nợ xấu NH là giải pháp duy nhất để "thông" vốn cho nền kinh tế. Nhưng không có gì đảm bảo rằng sau khi mua nợ xấu, các NH sẽ bơm vốn vào nền kinh tế. Trong khi có nhiều yếu tố cho thấy, ngay cả khi được "làm sạch" bảng tín dụng, các DN cũng khó tiếp cận được tín dụng của hệ thống NH với lãi suất rẻ. Bởi rõ ràng, một DN bị "án treo" nợ xấu, sau khi mua nợ rồi, NH nào dám cho DN đó vay nữa? Việc chắc chắn nhất trong chuyện này là các NH được lợi bởi rủi ro đã được nhà nước gánh thay. Đó là chưa kể, về nguyên tắc, khi NH cho DN vay, vẫn phải đáp ứng các yêu cầu, điều kiện vay. Mà ở thời điểm hiện tại, không phải là NH vẫn khẳng định, họ sẵn sàng cho vay với các hồ sơ đạt chuẩn? Điều đó một lần nữa khẳng định, việc thành lập công ty nợ xấu thực chất không giải quyết được vấn đề thông vốn từ NH tới DN mà chỉ làm lợi cho các NH mà thôi.
 
Các NH vẫn đang lãi lớn, tại sao không để họ lấy lợi nhuận ra để cân đối lại nợ xấu? Tại sao nhà nước lại phải đứng ra gánh phần rủi ro, phần yếu kém cho các NH? Tất cả các hệ lụy, các rủi ro và những câu hỏi phải được trả lời rõ ràng trước khi tiến hành thành lập công ty mua bán nợ xấu NH.
 
Để xử lý nợ xấu, Trung Quốc đã lập ra các công ty mua bán nợ là công ty quản lý tài sản (AMC) chỉ mua nợ của DN nhà nước. Vì hằng năm các ACM phải trả lãi cho các trái phiếu mà họ phát hành nên là trong 2-3 năm đầu hoạt động, các ACM không còn tiền mặt để chi trả. Nhiều chuyên gia phân tích NH tại Trung Quốc cho rằng, NH Trung ương Trung Quốc (PBOC) sau đó đã tăng các khoản cho vay cho các ACM để họ có tiền trả lãi. Như vậy, ngoài số tiền được chuyển giao lúc đầu thì hằng năm còn phát sinh thêm dòng tiền trả lãi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lạm phát nếu như PBOC không cân đối được dòng tiền hút vào thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vì thông tin về các ACM là không minh bạch nên không ai biết được PBOC bơm ra bao nhiêu tiền cho họ.
 
Theo Nguyên Hằng
Thanh niên
 

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Lãi suất tiền gửi còn 9%/năm: Gửi tiết kiệm vẫn an toàn nhất

Ngày đăng : 11/06/2012 - 8:42 AM

 

Giá USD lại ổn định, thị trường vàng cũng không có nhiều biến động, bất động sản đóng băng… Vì vậy, người dân gửi tiết kiệm lấy lãi 9% vẫn là an toàn nhất và tốt hơn cả.
 
Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có Thông tư 19 về trần lãi suất tiền gửi mới, tuy nhiên thị trường gửi-vay không có nhiều biến động.
 
Hạ lãi suất gây bất ngờ
 
Ngày 11-6, lãi suất tiền gửi còn 9%, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng VN còn 13%. Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính NH, việc NHNN giảm hẳn 2% lãi suất đã gây ngạc nhiên trong giới tài chính, bởi theo lộ trình dự tính thì mỗi quý sẽ giảm 1% lãi suất. Từ giờ đến cuối năm vẫn còn hai quý, nghĩa là lãi suất còn hạ nữa.
 
Ông cho rằng “nền kinh tế hiện gặp khó khăn, chi phí đầu vào của DN cao. NHNN cho rằng hạ lãi suất sẽ cứu được DN. Việc mạnh tay hạ lãi suất thể hiện sự quyết tâm và kỳ vọng của NHNN”.
 
Theo TS Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đúng theo lộ trình sẽ giảm mỗi quý 1% nhưng CPI tháng 5 lại giảm rất mạnh, buộc lòng NHNN phải mạnh tay hạ lãi suất để phù hợp với điều kiện thực tế.
 
Theo ghi nhận tại một số NH, nhiều khách hàng đã tranh thủ đáo hạn sổ tiết kiệm trước ngày 11-6 để được hưởng lãi suất cao. Trước đó, một số NH đã tư vấn cho người dân nên gửi kỳ hạn dài, bởi thế việc đáo hạn trong những ngày qua không nhiều. Một số NH không làm thêm ngày cuối tuần, khác với các lần hạ lãi suất tháng 4, tháng 5.
 
Bà Nguyễn Thị Cúc (quận Tân Bình) cho biết: “Lãi suất 9% bây giờ chỉ bằng một nửa so với lãi suất một năm trước. Vì vậy chẳng còn mấy đồng lãi. Nhưng rút tiền tiết kiệm ra thì không biết làm gì sinh lời nên tôi cứ gửi NH tiếp đi đã”.
 
Việc giảm lãi suất còn 9% liệu có làm giảm vốn huy động vào các NH? Ông Hiếu cho rằng cần thêm vài ngày nữa mới có hiệu ứng rõ rệt. Hy vọng việc giảm lãi không tạo ra những biến động xấu cho thị trường. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một dòng tiền sẽ chuyển hướng, đổ vào thị trường chứng khoán, vàng hoặc USD.
 
Ông Ngoạn thì cho rằng thị trường chứng khoán tăng nhưng đâu phải tất cả cổ phiếu đều tăng, vẫn có những mã giảm. Ngay cả cổ phiếu hôm nay tăng nhưng mai giảm cũng là chuyện rất bình thường, không phải ai cũng biết chơi chứng khoán. Giá USD lại ổn định, thị trường vàng cũng không có nhiều biến động, bất động sản đóng băng… Vì vậy, người dân gửi tiết kiệm lấy lãi 9% vẫn là an toàn nhất và tốt hơn cả.
 
Có trần làm méo mó
 
Theo ông Hiếu, việc áp trần lãi suất đang tạo tâm lý không tốt cho người gửi tiền lẫn người vay tiền. Cụ thể, người gửi tiền cứ muốn lãi suất cao hơn mức trần. DN đi vay cứ muốn lãi suất thấp hơn mức trần. Thế nhưng chỉ có một mức trần đó để áp khiến cả hai đối tượng này có cảm giác không thoải mái về lãi suất. Điều này tạo nên sự méo mó của thị trường hiện nay.
 
“Phải nhanh chóng tự do hóa lãi suất, khi thả nổi lãi suất hai đầu, cung và cầu sẽ gặp nhau ở một điểm là lãi suất bình quân. Như vậy mới thỏa mãn được mong muốn của người gửi và của NH” - ông Hiếu nói.
 
Theo TS Ngoạn, trước đây chúng ta đã từng không có trần lãi suất. Thế nhưng sau một thời gian thả nổi thì thị trường quá hỗn loạn. Bởi thế NHNN đã buộc lòng phải áp dụng trần lãi suất. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, thanh khoản của hệ thống NH ngày càng tốt hơn, nợ xấu cũng sớm được giải quyết thì sắp tới cũng nên bỏ trần lãi suất.
 
Liệu bỏ trần lãi suất thì thị trường có lại “quá hỗn loạn” nữa hay không? Ông Hiếu phân tích rằng trước đây chúng ta tự do lãi suất, sau đó một vài NH tăng lãi suất khiến nhiều NH khác “đua” theo. Thấy thị trường lãi cứ tăng hoài, chúng ta áp trần lãi suất. Nếu chúng ta cứ kiên trì tự do lãi suất thì bản thân thị trường sẽ phải tự điều tiết. NH cứ cho vay 20% mãi thì DN nào dám vay, tự NH phải điều chỉnh giảm lãi chứ. “Chúng ta phải kiên trì thì lãi suất sẽ theo chiều đi xuống chứ không tăng lên” - ông Hiếu nhấn mạnh.
 
Theo Yên Trang
 
PLTP
 


Hạ trần lãi suất huy động về 9%/năm

Ngày đăng : 08/06/2012 - 8:54 AM

 

 

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho biết sẽ hạ trần lãi suất huy động VND về 9%/năm từ ngày 11/6 tới.
 
Đây là thông tin được Thống đốc Bình đưa ra khi giải trình trước diễn đàn Quốc hội chiều nay (7/6).
 
Thống đốc cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ và được chấp thuận tiếp tục hạ trần lãi suất huy động VND. Theo đó, từ ngày 11/6 này, trần lãi suất huy động VND sẽ giảm một bước 2%/năm, từ 11%/năm hiện nay xuống còn 9%/năm.
 
Thống đốc Bình không nêu chi tiết việc áp dụng các kỳ hạn, nhưng có thể dự tính mức trần 9%/năm nói trên sẽ áp cho các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên; còn các kỳ hạn dưới 1 tháng có thể sẽ chỉ còn 1%/năm, nếu tính theo bước giảm lần này.
 
Minh Đức 
Vneconomy
 

 


Ai là người cuối cùng gánh nợ xấu?

Ngày đăng : 07/06/2012 - 10:45 AM

 

Nợ xấu đang gây ách tắc dòng vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác dụng và đặc biệt có thể tác động làm phá sản những doanh nghiệp lớn.
 
Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Và để giải quyết nợ xấu, dù bằng cách nào, rốt cuộc ngân sách cũng phải bỏ tiền ra. Vấn đề là ai được hưởng lợi nhiều nhất và liệu có ai phải chịu trách nhiệm về gánh nặng tăng thêm của ngân sách?
 
Gần đây, những khoản nợ mười mấy ngàn tỉ đồng của một ngân hàng nọ đang được không ít tổ chức tín dụng để ý và đánh tiếng. Họ muốn mua lại vì chúng được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là một số khu đất “vàng”, trung tâm thương mại, tòa nhà văn phòng, căn hộ ở trung tâm một thành phố lớn. Quá trình thảo luận tập trung vào giá khi ngân hàng chủ nợ không muốn bán rẻ, còn bên mua thì yêu cầu chiết khấu càng nhiều càng tốt.
 
Mờ ảo khối nợ
 
Không phải ngẫu nhiên mà trong cuộc họp với nhóm 14 ngân hàng thương mại lớn (G-14) vào tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt lên bàn chủ trương thành lập công ty mua bán nợ quốc doanh với số nợ có thể giao dịch lên tới 100.000 tỉ đồng. Chưa rõ thời điểm hoạt động, ai góp vốn và cơ chế giao dịch như thế nào, nhưng chủ trương khai sinh một pháp nhân như vậy cho thấy sự bức thiết phải tháo gỡ ngay khối nợ xấu trong nền kinh tế. Nợ xấu đang gây ách tắc dòng vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác dụng và đặc biệt có thể tác động làm phá sản những doanh nghiệp lớn.
 
Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính chỉ ra các tập đoàn, tổng công ty đang nợ ngân hàng khoảng 415.000 tỉ đồng. Tuy nhiên nợ và nợ quá hạn khác nhau. Tỷ lệ vay nợ cao, gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu là thực trạng chung của khối quốc doanh khi mà ngân sách không cấp đủ vốn cho doanh nghiệp, trong khi các tập đoàn “bành trướng” quá nhanh vào nhiều lĩnh vực.
 
Cơ quan có thể đánh giá tương đối chính xác về nợ và nợ xấu là NHNN. Tiếc rằng tỷ lệ nợ xấu mà NHNN công bố luôn khiến người ta phải hoài nghi. Tỷ lệ nợ xấu gần nhất được NHNN đưa ra là khoảng 3,2-3,6% tổng dư nợ, chênh lệch khá xa mức 13% mà Tổ chức định mức tín nhiệm Fitch công bố năm ngoái. Còn so với mức chừng 10% mà các chuyên gia tài chính khẳng định, nó thấp hơn ba lần.
 
Hiện tại dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng ước 2,5 triệu tỉ đồng. Giả sử tỷ lệ nợ xấu 10%, nó tương đương 250.000 tỉ đồng hay 12 tỉ đô la Mỹ. Số nợ xấu này hầu như đang nằm im, chỉ nhúc nhích trong một số trường hợp mua bán nợ thành công. Muốn giải quyết nó, trước hết phải làm nó chuyển động. Mặc dù NHNN vừa ban hành Văn bản 2871 ngày 16-5-2012 cho phép các tổ chức tín dụng mua bán nợ, nhưng sự khởi động tỏ ra chậm chạp vì thiếu người khởi xướng.
 
Cũ và mới
 
Trong lịch sử non trẻ của ngành ngân hàng, hẳn nhiều người chưa quên giai đoạn sóng gió các vụ án Tamexco, Minh Phụng - Epco. Ngày đó, số nợ xấu của ngân hàng cũng lớn so với tổng dư nợ, nhưng quy mô không thể so với bây giờ. Và cái khác căn bản là giá trị của tài sản thế chấp bất động sản chưa ở mức “bong bóng” như hiện tại.
 
Tài sản đảm bảo, chủ yếu là đất và quyền sử dụng đất, của Minh Phụng - Epco ở thời điểm thế chấp, đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng 5-6 năm sau đó. “Cơn sốt” bất động sản khi ấy còn sơ khai. Nay thì khác. Giá đất đã tăng chóng mặt trong vòng năm năm qua và dường như thời kỳ đỉnh cao của nó đã qua. Những khu đất được định giá thấp hơn giá thị trường và chỉ được cho vay bằng 50-70% giá trị ở thời điểm vay 3-4 năm trước, hiện khó mà chuyển nhượng bằng với mức định giá của ngân hàng. Sự ì ạch của việc phát mãi tài sản nhằm thu hồi vốn của ngân hàng xuất phát từ đây. Đúng là thủ tục phát mãi phức tạp. Tuy vậy sự phức tạp đó không mang tính quyết định. Người ta e ngại chủ yếu giá chuyển nhượng các tài sản thấp hơn giá trị khoản vay.
 
Nói ngắn gọn, để thanh lý nợ xấu, phải có ai đó gánh phần lỗ lã, hoặc ngân hàng, hoặc người vay. Tốc độ xử lý nợ phụ thuộc vào mức độ chiết khấu so với giá thị trường. Có những tổ chức “kền kền” sẵn sàng vào cuộc, bởi nghề của họ là đánh hơi các dấu hiệu của “xác chết”.
 
Có hai cách để thanh lý nợ xấu: thứ nhất là mua đứt bán đoạn trên cơ sở thương lượng giữa các tổ chức “kền kền” và các ngân hàng chủ nợ. Cách này cho kết quả nhanh và dứt điểm. Nó sẽ buộc những ngân hàng bán nợ hạch toán ngay một/nhiều khoản lỗ và dĩ nhiên ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng. Để “cứu” những ngân hàng lỗ, Nhà nước và các doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác phải vào cuộc. Sẽ lại xuất hiện những biện pháp cũ: tái cấp vốn, góp vốn của những ngân hàng khỏe để hỗ trợ, ưu đãi thuế...
 
Cách thứ hai là Nhà nước bỏ vốn thông qua NHNN vào công ty mua bán nợ và công ty này thông qua mua nợ, trở thành cổ đông của các ngân hàng bán nợ. Khi ngân hàng bán nợ lấy lại phong độ, Nhà nước có thể bán cổ phần của mình, thu hồi vốn. Đây là cách mà nhiều quốc gia đã thực hiện.
 
Rốt cuộc áp dụng cách nào, Nhà nước, mà ở đây là ngân sách, cũng phải bỏ tiền ra. Từ trường hợp xử lý nợ Vinashin ở Habubank dễ dàng nhận ra ngân sách đã phải bỏ tiền ra thông qua ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ba năm cho SHB; cho trích lập dự phòng nợ Vinashin dần từng năm thay vì tiến hành ngay một lúc theo thông lệ quốc tế; cho phép Vinashin phát hành trái phiếu với sự bảo lãnh của Chính phủ để trả một phần nợ.
 
Khi Nhà nước phải bỏ tiền, câu hỏi đi kèm sẽ là ai được hưởng lợi nhiều nhất và liệu có ai phải chịu trách nhiệm về gánh nặng tăng thêm của ngân sách đó không?
 
Theo Lưu Hảo
 
TBKTSG
 


Chưa đầy 1% doanh nghiệp TP HCM được hưởng trần lãi vay

Ngày đăng : 06/06/2012 - 8:56 AM

 

Trong tổng hơn 100.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ của TPHCM, vỏn vẹn 650 đơn vị đã tiếp cận được vốn ưu đãi của ngân hàng trong suốt tháng đầu tiên thực hiện trần lãi suất cho vay với một số lĩnh vực ưu tiên.

Chiều 5/6, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân TP HCM đã có cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước TP HCM, tính đến 29/5, gần một tháng triển khai áp trần lãi vay theo Thông tư 14 của Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc 4 nhóm ưu tiên trên địa bàn TP HCM mới tiếp cận được gần 7.000 tỷ đồng vốn vay từ ngân hàng. Trong đó, 70 doanh nghiệp được vay vốn theo diện ưu đãi phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Khu vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, có 85 doanh nghiệp được tiếp cận vốn vay với dư nợ hơn 887 tỷ. Còn công nghiệp hỗ trợ là trên 181 tỷ đồng dành cho 37 doanh nghiệp. Riêng cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, số doanh nghiệp vừa và nhỏ được giải ngân là 459 đơn vị với nguồn vốn hơn 4.279 tỷ đồng.

Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước TP HCM Nguyễn Ngọc Thắng cho biết thêm, tổng dư nợ của các nhà băng trên địa bàn đến ngày 31/5 đạt 762.200 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước, giảm 0,24% so với cuối năm và tăng 1,58% so với cùng kỳ. Trong đó dư nợ bằng VND đạt 553,103 tỷ đồng, giảm 0,72% so với cuối năm, dư nợ ngoại tệ đạt 209,097 tỷ đồng, tăng 1,05%.

Lý giải sự tăng trưởng tín dụng khá khiêm tốn cho 4 lĩnh vực ưu tiên, Phó giám đốc cho rằng, mặc dù thực hiện đúng chủ trương của Ngân hàng Trung ương nhưng các nhà băng vẫn khó khăn tìm kiếm khách hàng mới vay vốn. Nguyên nhân do hầu hết các doanh nghiệp đều đang trong tình trạng có nợ quá hạn hoặc nợ xấu cao tại các nhà băng. Trong khi đó, hàng tồn kho lớn, doanh nghiệp khó tiêu thụ sản phẩm, lại chưa có phương án kinh doanh hiệu quả. Chỉ số an toàn trong hoạt động doanh nghiệp bị suy giản đáng kể.

Trong khi đó, về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Ngọc Hưng, Phó chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP HCM cho rằng, nguyên nhân là do ngân hàng chọn an toàn về vốn và an toàn về chính sách.

Để minh chứng cho nhận xét của mình, ông Hưng chỉ ra rằng, vì sợ mất vốn nên nhiều nhà băng thường rút ngắn thời gian cho vay, thay vì từ một năm thì chỉ còn 6 tháng khiến doanh nghiệp bị thiếu vốn và không xoay sở kịp. Ngoài ra, hầu hết doanh nghiệp hiện nay đều gặp khó về tài sản thế chấp. Thêm vào đó, với mức lãi suất 14% hiện nay thì đầu tư vẫn không có lời.

Giãi bày nỗi khổ của ngân hàng, ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Á cho biết, ngân hàng không hề “đóng cửa” với doanh nghiệp. Hiện nay, mỗi ngân hàng đều muốn chăm lo khách hàng của mình bằng cách giảm lãi suất để giữ chân khách. "Bởi nếu không làm vậy, nhà băng sẽ bị ngân hàng bạn lôi kéo khách", ông bình nói.

Tuy nhiên, vấn đề hiện nay, theo ông Bình cần phải đưa ra cụ thể doanh nghiệp nào, của hiệp hội nào đang gặp khó khăn khi tiếp cận vốn, và những khó khăn đó là gì...thì nhà băng mới có hướng giải quyết.

Để khơi thông dòng vốn, Tổng giám đốc Eximbank Trương Văn Phước cho rằng, vấn đề đầu tiên là phải tiếp tục giảm lãi suất. Nếu giá lãi suất thấp thì cầu về tiền tệ sẽ tăng. Muốn vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xác lập trần cho vay không chỉ dành cho 4 nhóm mà nên mở rộng ra. Bởi theo ông, hiện nay chỉ áp trần cho 4 đối tượng nên lãi suất không xuống được. Vì vẫn còn có nhiều ngõ ngách để các ngân hàng lách nên lãi suất vẫn cao.

Ngoài ra, Tổng giám đốc Eximbank còn cho rằng, đi đôi với giảm lãi suất phải tìm cách giải quyết cho được bài toán hàng tồn kho. Biện pháp cuối cùng là thành lập công ty mua bán nợ. Khi đó, Việt Nam vừa tẩy được nợ xấu ra khỏi ngân hàng, doanh nghiệp cũng sẽ tiếp cận được vốn vay.

Đánh giá về con số giải ngân gần 7.000 tỷ đồng dành cho doanh nghiệp thuộc 4 nhóm ưu tiên trong gần một tháng qua, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trần Minh Tuấn cho rằng, đây là con số quá khiêm tốn và cần đẩy mạnh tăng trưởng hơn nữa trong những tháng cuối năm.

Theo ông Tuấn, với tình hình lạm phát đang giảm như hiện nay, có thể thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Tổng kết cuộc họp, Chủ tịch UBND TP HCM Lê Hoàng Quân yêu cầu, trong thời gian sớm nhất, các lãnh đạo hiệp hội doanh nghiệp cần nhanh chóng đưa ra danh sách những đơn vị trên địa bàn thành phố đang gặp khó khăn về vốn vay, hàng hóa tồn kho một cách thật cụ thể để trình lên Uỷ ban. "Có như vậy, chúng tôi mới có thể đưa ra hướng giải quyết hiệu quả chứ không nên báo cáo suông. Ngoài ra, từng nhà băng cũng phải đưa ra cam kết cho doanh nghiệp vay vốn trong khả năng của mình", ông Quân nói. 

Theo Lệ Chi

Vnexpress


TS. Trần Hoàng Ngân: Duy trì lãi suất huy động ở mức 8-9% là hợp lý

Ngày đăng : 05/06/2012 - 9:06 AM

 

Ông Ngân cho rằng, không nên làm vội vàng giảm lãi suất ngay lúc này mà có thể chờ tới cuối tháng 6.

Theo thông tin từ cuộc họp giữa Ngân hàng Nhà nước cùng 14 ngân hàng thương mại, từ nay đến hết 2012, nếu kinh tế vĩ mô không có những biến động bất thường, lạm phát duy trì mức tăng thấp như thời gian vừa qua, lãi suất huy động sẽ được đưa về mức 9%/năm để tạo điều kiện hạ lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.

PGS. TS Trần Hoàng Ngân, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia đã có cuộc trao đổi với phóng viên xung quanh vấn đề này. 

- Thưa ông, có thông tin sắp tới trần lãi suất huy động sẽ được giảm xuống còn 9%/năm. Vậy ông nhận định thế nào về thông điệp này?

Ông Trần Hoàng Ngân: Theo tôi, điều hành lãi suất của chúng ta nên có một thông điệp rõ ràng và minh bạch. Ví dụ nước Pháp thường công bố lộ trình trước khi triển khai khoảng vài năm. Vì vậy, việc giảm lãi suất huy động thời gian tới theo mục tiêu của lạm phát năm nay, cũng như mục tiêu lạm phát mà Nghị quyết Quốc hội thông qua là đến 2015 chỉ ở mức 5-7%. Điều đó có nghĩa là lãi suất huy động chỉ ở mức 8-9% là hợp lý và cần phải duy trì.

Quan trọng là chúng ta phải có thông điệp, lãi suất phải đi theo một tiêu chí, tức là lãi suất sẽ đi theo lạm phát cơ bản. Nếu chúng ta đi theo CPI (chỉ số giá tiêu dùng) thì chúng ta sẽ chạy theo "cơn sóng" vì giá xăng dầu thế giới bùng phát sẽ làm CPI tăng lên, lúc đó lãi suất sẽ lại phải tăng theo. Khi lãi suất tăng trở lại, nhà đầu tư sẽ không dám mạnh dạn chi tiền nữa.

Hiện nay nền kinh tế suy giảm là do những người có tiền không dám đầu tư vì họ chưa biết chính sách có nhất quán hay không. Vì vậy cần phải đưa ra thông điệp rõ ràng là lãi suất theo lạm phát cơ bản.

- Theo ông, việc giảm mạnh lãi suất lần tới này có ý nghĩa như thế nào với nền kinh tế?

Ông Trần Hoàng Ngân: Theo tôi, việc giảm lãi suất có ý nghĩa rất rộng, không chỉ có ý nghĩa làm tăng dư nợ. Một là giúp cho những doanh nghiệp có dự án đầu tư họ tính tỷ suất lợi nhuận ở mức khoảng 13-14%. Vậy khi lãi suất giảm, doanh nghiệp thấy dự án này triển khai được lúc đó họ mới thực hiện dự án.

Hai là, chúng ta tái cấu trúc lại thị trường tài chính để cho các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Điều mong muốn lâu nay của chúng ta là làm sao vốn hóa thị trường chứng khoán lên để doanh nghiệp bớt lệ thuộc vào ngân hàng. Và như vậy doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Lãi suất huy động 8-9%/năm thì những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận khoảng 13% là có thể huy động được. Còn nếu để lãi suất huy động cao thì những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận 13-14% không thể huy động được. Bên cạnh đó, mức lãi suất hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tăng lượng phát hành cổ phiếu và trái phiếu để tăng mức vốn hóa.

Ba là, thúc đẩy quá trình tái cấu trúc các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty để cổ phần hóa. Như vậy doanh nghiệp sẽ bán cổ phiếu. Nhà đầu tư họ thấy kênh gửi tiết kiệm không phải là kênh duy nhất nữa nên sẽ đầu tư cổ phiếu.

Bốn là, việc phát hành trái phiếu của Chính phủ để triển khai các dự án đầu tư công, lãi suất giảm Chính phủ sẽ phát hành dễ hơn và với mức lãi suất thấp hơn. Nếu như năm nay dự kiến sẽ phát hành trên 100 nghìn tỷ đồng mà lãi suất từ 11-12% xuống còn 10% thì ngân sách Nhà nước sẽ tiết kiệm được từ một đến hai nghìn tỷ đồng. Nếu nguồn tiền này lại được đưa vào xây dựng trường học thì đây là kích cầu đầu tư.

Như vậy giảm lãi suất mang lại nhiều ý nghĩa chứ ko phải thuần túy tăng dư nợ.

Tôi phản đối chuyện để tăng dư nợ mà giảm nguyên tắc cho vay, như vậy thì nguy kịch lắm. Vì nền kinh tế hiện nay đang bị rủi ro là do nợ xấu. Nợ xấu là tác nhân nghiêm trọng đến suy giảm kinh tế. Nợ xấu được ví như khối u và nếu để nó thành khối u lớn và di căn lên, tàn phá nền kinh tế thì rất nguy hiểm. Và khi nới điều kiện cho vay thì nợ xấu lại tăng. Do đó, mục tiêu của Chính phủ cần hình thành nên một công ty, Ban, tổ liên Bộ để giải quyết nhanh “cục” nợ xấu. Cái nợ xấu này có thể khoảng 5-6% GDP và nếu mình kiên quyết xử lý thì sẽ giảm. Đó là điểm nghẽn nền kinh tế hiện nay.

- Theo ông có nên giảm lãi suất huy động ngay trong thời điểm này không?

Ông Trần Hoàng Ngân: Cũng không nên làm vội vàng. Cuối tháng 6 có thể giảm được. Nhưng thông điệp của Chính phủ đưa ra một cách chắc chắn thì bản thân các ngân hàng thương mại cũng sẽ giảm trước. Còn nếu thông điệp mà đưa ra còn cân nhắc, còn xem xét CPI ra sao thì sẽ tạo tâm lý không ổn định từ nhà đầu tư.

- Nhưng hạ lãi suất xuống thấp liệu có lo ngại người dân không gửi tiền vào ngân hàng?

Ông Trần Hoàng Ngân: Điều này cũng tốt thôi, nếu người dân chi tiêu vào tiêu dùng thì giải quyết được hàng tồn kho, còn đầu tư vào bất động sản thì sẽ tốt cho thị trường này. Ngoài ra, nếu người dân đầu tư vào chứng khoán thì sẽ thúc đẩy tái cấu trúc thị trường tài chính.

Nhà đầu tư xoay vòng kiểu gì cũng tốt, chứ không nên cố thủ quá. Với lại mình nhìn số lượng người đang thất nghiệp chứ không nên chỉ nghĩ tới người có tiền gửi ngân hàng.

- Theo ông, việc đưa lãi suất về mức thấp như vậy liệu có ổn định và lâu dài được không?

Ông Trần Hoàng Ngân: Theo cá nhân tôi là ổn định và thông điệp đó Thống đốc cần đưa ra./.

- Xin cảm ơn ông!

Theo Thúy Hà
TTXVN
 


 

Tin mới cập nhật