Nhiều chính sách tiền tệ bắt đầu có hiệu lực

Ngày đăng : 02/05/2012 - 2:20 PM

 

Trong tháng 5 này, nhiều chính sách tiền tệ bắt đầu có hiệu lực thi hành, trong đó một số nội dung vẫn còn chờ đợi hướng dẫn cụ thể.

Hôm nay (2/5), Thông tư số 07/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bắt đầu có hiệu lực.

Với thông tư trên, trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng bị thu hẹp từ +/-30% vốn tự có xuống còn +/-20% vốn tự có. Cụ thể, Thông tư 07 quy định: tổng trạng thái ngoại tệ dương của các tổ chức tín dụng không được vượt quá 20% vốn tự có; tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày của các tổ chức tín dụng không được vượt quá 20% vốn tự có.

Quy định trên được đưa ra sau khoảng một năm kể từ khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhằm phù hợp với thực tế hoạt động của các tổ chức tín dụng sau một thời gian dài áp giới hạn +/-30%, cũng như hạn chế nhất định điều kiện tạo khả năng đầu cơ ngoại tệ trong hệ thống.

Hai ngày giao dịch cuối tháng 4 vừa qua, tỷ giá USD/VND có những biến động đáng kể. Các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào từ 30 - 40 VND, tăng giá USD bán ra từ 60 - 70 VND. Diễn biến này có thể gắn với nhu cầu mua vào của một số tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo giới hạn mới về trạng thái ngoại tệ nói trên.

Cũng là một giải pháp góp phần quản lý và giữ ổn định thị trường ngoại hối, từ hôm nay (2/5), Thông tư số 03/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định việc cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng bắt đầu có hiệu lực.

Cơ chế tín dụng ngoại tệ mới đã có những thay đổi căn bản so với trước đó, theo hướng siết chặt hơn dòng vốn mà nhiều ý kiến thời gian qua cho là gây xáo trộn và tạo áp lực đối với tỷ giá USD/VND; dù giá trị của dòng vốn này đối với doanh nghiệp, với hoạt động xuất khẩu… là rất đáng kể.

Cụ thể, cơ chế mới đã loại bỏ nhiều đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, kể cả nhà xuất khẩu vay để quy đổi sang VND đưa vào sản xuất trong nước. Và các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối chỉ được xem xét quyết định cho vay đối với các nhu cầu vốn: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng ngoại tệ để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất - kinh doanh để trả nợ vay; vay để thanh toán tiền nhập khẩu xăng dầu… Một số trường hợp, dự án có thể được vay nhưng phải có sự chấp thuận bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước.

Từ hôm nay (2/5), một mốc hẹn trong Thông tư 11/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước cũng bắt đầu có hiệu lực. Theo thông tư này, từ ngày 1/5/2011, tổ chức tín dụng không được thực hiện cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và các tổ chức tín dụng khác, kể cả các hợp đồng tín dụng đã ký kết nhưng chưa giải ngân hoặc giải ngân chưa hết.

Và thông tư cũng quy định các tổ chức tín dụng không được gửi vàng tại tổ chức tín dụng khác; không được thực hiện các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức cấp tín dụng khác bằng vàng. Việc phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của tổ chức tín dụng chấm dứt vào ngày 1/5/2012.

Liên quan đến quy định trên, thời gian gần đây thị trường bắt đầu đón nhận dịch vụ nhận giữ vàng có lợi tức của một số ngân hàng thương mại. Khi huy động vàng bị cấm, một số nhà băng đã mở dịch vụ giữ hộ và trả lợi tức khá cao, có từ 3,5% - 4,6%/năm.

Trong khi đó, một câu hỏi đang được đặt ra là nhóm “G5” là các ngân hàng thương mại được chọn tham gia giải pháp bình ổn thị trường vàng thời gian qua có được loại trừ khỏi quy định trên hay không? Bởi nhóm này phải huy động vàng trong dân, chuyển đổi một phần nhất định trong đó để tạo cung bình ổn thị trường tại những thời điểm cần thiết. Nếu cũng bị cấm như các tổ chức tín dụng khác thì sẽ không có nguồn để chuyển đổi.

Về câu hỏi trên, mới đây Ngân hàng Nhà nước đã có yêu cầu 5 ngân hàng thương mại đó báo cáo về tình hình mạng lười hoạt động, chuẩn bị cho việc triển khai các chính sách điều hành, quản lý thị trường vàng. Có thể, nhóm này sẽ được chọn là các đại lý, huy động và kinh doanh vàng theo nghị định mới ban hành.

Nghị định mới ban hành về quản lý hoạt động kinh doanh vàng cũng là văn bản bắt đầu có hiệu lực trong tháng này (từ ngày 25/5). Đây là văn bản quan trọng, tạo những thay đổi cơ bản về hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng trong thời gian tới.

Nghị định này quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước tổ chức quản lý và sản xuất vàng miếng qua các hạn mức từng thời kỳ; cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán…

Hiện thông tư hướng dẫn cụ thể cho nghị định trên đang được Ngân hàng Nhà nước xây dựng và lấy ý kiến hoàn thiện để sớm đưa chính sách mới vào cuộc sống.

THÙY DUYÊN

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

NHNN: Xem xét giảm lãi suất cho vay và cơ cấu thời hạn nợ phù hợp với DN

Ngày đăng : 25/04/2012 - 9:46 AM

 

Ngày 24/4/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có văn bản số 2506/NHNN-CSTT gửi các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện các giải pháp về hoạt động tín dụng. 

 

Theo đó, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp về hoạt động tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ dân từng bước phục hồi, duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện một số nội dung.

 

Thứ nhất, các tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với khách hàng vay trong việc rà soát, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay trong việc trả nợ vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án, phương án vay vốn, khả năng trả nợ của khách hàng.

 

Trên cơ sở kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay và khả năng tài chính của mình, tổ chức tín dụng thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng theo quy định tại Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005.

 

Cụ thể, khách hàng không có khả năng trả nợ đúng kỳ hạn nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả nợ trong các kỳ hạn tiếp theo thì tổ chức tín dụng xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay; khách hàng không có có khả năng trả hết nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay đúng thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và được đánh giá là có khả năng trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định sau thời hạn cho vay thì tổ chức tín dụng xem xét cho gia hạn nợ với thời hạn phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng.

 

Các tổ chức tín dụng thực hiện việc phân loại nợ đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định tại Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ.

 

Thứ hai, Thống đốc cũng yêu cầu, trên cơ sở khả năng tài chính và chính sách khách hàng của mình, tổ chức tín dụng xem xét điều chỉnh giảm lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống theo mức lãi suất cho vay hiện hành, nhất là đối với các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động.

 

Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng xem xét miễn, giảm lãi phải trả đối với khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính theo quy định tại quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 và trên cơ sở khả năng tài chính, quy chế miễn, giảm lãi của tổ chức tín dụng.

 VnEconomy


Phó Thống đốc: 'Ở thời điểm hiện nay buộc phải chọn trần LS huy động'

Ngày đăng : 24/04/2012 - 1:27 PM

 

Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh thì cho rằng việc áp dụng trần lãi suất cho vay là biện pháp hành chính, chỉ dùng trong tình thế đặc biệt.
Tại cuộc họp của lãnh đạo TP.HCM với Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh sáng 23-4, nhiều ban ngành cho biết doanh nghiệp (DN) hiện gặp khó khăn vì lãi suất còn cao. Ở nhiều ngân hàng (NH), lãi suất cho vay vẫn trên 20%.


77% DN không vay được vốn

Theo báo cáo của Sở Công Thương, trong ba tháng đầu năm, số DN tiếp cận vốn vay chỉ khoảng 23% tổng DN, chủ yếu là DN sản xuất quy mô lớn.

Đại diện Hiệp hội DN TP.HCM cho biết hiện có bốn vấn đề cần giải quyết. Thứ nhất, hiện nay NH thích cho nhau vay hơn là cho DN vay. Thứ hai, hiện có chênh lệch khá xa giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra. Bởi vậy đề nghị phải ấn định luôn mức trần lãi suất cho vay. Nếu không thì quy định một khoảng cách phù hợp.

Thứ ba, Hiệp hội cho rằng “NH xem xét hồ sơ vay của DN vừa và nhỏ cũng như hồ sơ của… tập đoàn”. Bởi vậy DN nhỏ không sao tiếp cận được nguồn vốn. Thứ tư, trước đây DN chỉ cần trả nợ cũ là có thể vay mới nhưng bây giờ đến hạn DN trả thì NH cũng không cho vay. Hiệp hội gợi ý nên có chính sách hồ sơ, giãn nợ, cho vay riêng đối với DN vừa và nhỏ.

Bức xúc về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM, cho rằng lãi suất vay phù hợp là trần lãi suất huy động cộng thêm khoảng 2%, sau đó 3% rồi lên 4%, nay lên đến 8% là không còn phù hợp.

Bà cũng nhấn mạnh: “Chúng ta vẫn nói rằng lãi suất có xu hướng giảm. Theo tôi nên nói có giảm hay là không, đừng có nói xu hướng nữa!”. 

Không có trần nhưng có khung

Ông Nguyễn Đồng Tiến, Phó Thống đốc NHNN, cho biết mỗi quý sẽ giảm 1% lãi suất, tháng 3 và tháng 4 đã giảm hai lần, một số NH lớn hiện đã giảm lãi suất cho vay, nơi thấp nhất là 13%. Ông cũng cho rằng nhiều NH dành ra các gói tín dụng hàng chục ngàn tỉ đồng cho DN với gói lãi suất 13%-16%.

“Bản thân NH cũng là DN, cũng có khó khăn của mình, nhất là khi chúng ta đang cơ cấu lại hệ thống NH. NH có vốn mà không cho vay được cũng là bi kịch của NH. Chúng tôi chắc chắn có những tháo gỡ. Xin khẳng định rằng tất cả NH đều có chính sách, bộ phận riêng, nguồn vốn riêng cho DN vừa và nhỏ” - ông Tiến khẳng định.

Về vấn đề quy định trần lãi suất vay, ông Tiến cho biết ở thời điểm hiện nay chúng ta buộc phải chọn trần lãi suất huy động, người ta có thể chọn NH để gửi tiền và NH có quyền chọn DN để cho vay. Dự án khác nhau, ngành nghề khác nhau thì mức độ rủi ro khác nhau. Nếu áp dụng thêm trần lãi suất cho vay thì sẽ tạo ra sự phân bố nguồn vốn không hiệu quả.

Kết luận về việc này, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng việc áp dụng trần lãi suất cho vay là biện pháp hành chính, chỉ dùng trong tình thế đặc biệt. Ông khẳng định: “Chính phủ muốn hạ lãi suất hơn cả DN. Chúng ta nên chia sẻ với DN. Không có trần lãi suất cho vay nhưng vẫn có khung lãi suất cho vay và kiểm soát được”.

Làm rõ khó khăn, kiến nghị nên cụ thể

Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng đến hết quý I, tình hình kinh tế vĩ mô bắt đầu có dấu hiệu đi vào ổn định. Điều đó khẳng định mục tiêu và định hướng chúng ta đang đi là đúng. Ông chỉ đạo UBND TP.HCM làm rõ những khó khăn của DN, phân ra từng nhóm thì càng tốt. Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát lại, trên tinh thần là ưu đãi cao hơn cho một số lĩnh vực cần thiết, như y tế, giáo dục… Các hiệp hội nên có kiến nghị cụ thể là cần gì, sản phẩm cần ưu đãi thế nào… Các NH thanh tra, kiểm soát, thực hiện nghiêm việc giảm lãi suất.


Có thể giảm 50% thuế VAT

Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu để trong buổi họp thường kỳ với Chính phủ ngày 3-5 tới, đề xuất với Chính phủ giảm 50% thuế giá trị gia tăng (VAT).

Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết như trên trong hội thảo nhận định kinh tế thế giới và thách thức cho VN năm 2012 do Bộ Tài chính và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tổ chức sáng 23-4.

Bộ Tài chính sẽ họp, tổng hợp ý kiến của nhóm tư vấn, chuyên gia, đánh giá thực trạng DN để đưa ra giải pháp cụ thể, trong đó có giãn thuế và giảm VAT.

Đánh giá kinh tế quý I, ông Huệ cho rằng kinh tế vĩ mô ổn định nhưng nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu của sự suy giảm, cần giải pháp kịp thời về chính sách tiền tệ, tài khóa để gỡ khó cho cộng đồng DN.

TRÀ PHƯƠNG

Theo Yên Trang

PLTP


Xử lý nợ xấu thị trường

Ngày đăng : 23/04/2012 - 1:52 PM

 

Sau thương vụ hợp nhất 3 NH đầu tiên, đến nay bước sang đầu quý II-2012 vẫn chưa có thêm NH nào tiến hành hợp nhất, sáp nhập.

 

 

Tuy nhiên trong cuộc họp tới đây của NHNN với 14 NHTM lớn, bên cạnh tập trung xử lý nợ xấu, nội dung cuộc họp sẽ bàn đến vấn đề xử lý 9 NHTM yếu kém trong diện bị xử lý, nhất là xử lý các khoản tiền gửi, cho vay trên liên NH (thị trường 2).

 

Không thể vội vàng

 

Chiếu theo công bố trước đây của NHNN trong quý I-2012 sẽ có 5-8 NHTM tiến hành hợp nhất, sáp nhập, có thể thấy tiến trình tái cấu trúc NHTM yếu kém đang diễn ra khá chậm. Nhiều câu hỏi đặt ra vì sao NHNN chưa có động thái quyết liệt hay chờ các NHTM yếu kém tự nguyện hợp nhất, sáp nhập?

 

Nhiều lo ngại nếu quá trình tái cấu trúc diễn ra trì trệ sẽ tác động ngược trở lại thị trường tiền tệ làm giảm niềm tin của người dân với hệ thống NHTM. Nhất là việc chậm xử lý các NHTM yếu kém khiến nợ xấu trên thị trường liên NH kéo dài, gây thiệt hại cho một số NHTM khỏe mạnh đã cho vay các NHTM yếu kém này vay vốn.

 

Tuy nhiên, theo một chuyên gia NH, không thể vội vàng trong việc xử lý các NH yếu kém. Bởi lẽ việc thực hiện hợp nhất, sáp nhập 2 hay 3 NHTM yếu kém với kỳ vọng sẽ thành một NHTM khỏe mạnh không đơn giản. “Bệnh tật” của các NHTM yếu kém không giống nhau nên cần có thời gian bắt mạch để tìm thuốc trị liệu phù hợp.

 

Trong đó, không loại trừ có trường hợp phải dùng cơ chế xử lý đặc biệt chưa có tiền lệ. Hơn nữa, hiện tại NHNN đang dần hoàn thiện các hành lang pháp lý cho việc tái cấu trúc hệ thống  NHTM. Thời điểm này chỉ có thể kỳ vọng NHNN giám sát chặt chẽ hoạt động NHTM yếu kém và có biện pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời, nhằm tránh các NHTM này lách luật trong hoạt động, gây bất ổn thị trường.

 

Tuy nhiên, giới NH thừa nhận việc sắp xếp, xử lý các NHTM yếu kém chậm trễ đang tạo nên sự bất ổn trong chính nội bộ các NHTM yếu kém. Đơn cử, đầu tiên là lãnh đạo “dàn khung” ở các NHTM nhỏ được dự đoán nằm trong danh sách 9 NHTM yếu kém sẽ có tâm lý bất an về việc sắp xếp nhân sự khi việc hợp nhất diễn ra. Thực tế đã có không ít người đang âm thầm tìm kiếm vị trí mới ở NHTM khác.

 

Điều này vô tình càng gây khó cho các NHTM yếu kém. Chưa kể thông tin đồn đoán kéo dài cũng tạo tâm lý bất an trong nhân viên. Theo nhiều chuyên gia, sau khi cho phép thực hiện hợp nhất 3 NH đầu tiên, NHNN có thể rút ra được bài học kinh nghiệm khi hợp nhất, sáp nhập các NHTM khác.

 

Việc lỡ hẹn xử lý NHTM yếu kém không phải là vấn đề đáng lo ngại, mà hiệu quả mang lại trong hoạt động của NH sau tái cấu trúc mới quan trọng. Vì thế đòi hỏi NHNN phải tính toán chặt chẽ cách thức tổ chức, cơ cấu nhân sự, chi phí, việc tham gia của nhà đầu tư mới… đối với NHTM yếu kém. Có như vậy những NHTM sau hợp nhất, sáp nhập mới phát triển một cách hòa hợp và bền vững.

 

Gỡ khó trước mắt

 

Từ cuối quý I-2012 đến nay lãi suất trên thị trường liên NH luôn ở mức rất thấp khiến hoạt động kinh doanh của các NHTM trên thị trường này rất èo uột. Thời điểm này những NHTM có thế mạnh kinh doanh trên thị trường liên NH buộc phải dùng vốn chủ yếu mua tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu chính phủ, thay vì tập trung cho các NHTM vay lẫn nhau.

 

Một phó tổng giám đốc NH cổ phần cho biết hiện tại trên thị trường liên NH chỉ những NHTM khỏe chơi với nhau, nhưng các NHTM này đều trong tình trạng thừa vốn nên hoạt động vay mượn giải quyết thanh khoản gần như không có.

 

Trong khi đó các NHTM bậc trung và nhỏ khi có nhu cầu vay lại bị các NHTM lớn gây khó khăn như yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Còn những NHTM nhỏ yếu kém hầu như không thể chen được vào thị trường này.

 

Trong cuộc họp vừa qua với 14 NHTM lớn, NHNN kêu gọi các NHTM nên giảm bớt những yêu cầu quá khắt khe trong hoạt động liên NH để thị trường có thể hoạt động bình thường trở lại. Điều này là cần thiết để giúp thị trường tiền tệ vận hành một cách ổn định, tránh tình trạng một số NHTM nhỏ vì khó vay trên liên NH đã xé rào vượt trần lãi suất, tạo nên sóng mới cho lãi suất huy động tiền gửi trên thị trường dân cư.

 

Tuy nhiên, theo một lãnh đạo NH cổ phần, tình trạng nợ xấu liên NH trong năm qua cũng để lại bài học cay đắng cho nhiều NHTM, nhất là ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong năm 2011 của các NH. Hơn nữa, theo sửa đổi mới của NHNN về phân loại nợ, nhiều khả năng những khoản nợ tín dụng trên thị trường liên NH cũng phải được phân loại và trích lập dự phòng rủi ro.

 

Vì vậy, thời điểm này trong bối cảnh nợ xấu của hệ thống NHTM đang tăng nhanh, các NHTM sẽ phải cẩn trọng hơn khi cho các NHTM yếu vay vốn, ngoại trừ NHNN có cơ chế bảo lãnh đặc biệt với các NHTM nhỏ. Nhiều kỳ vọng trong cuộc họp kỳ tới của NHNN với 14 NHTM lớn sẽ tìm ra hướng xử lý dứt điểm các khoản tiền gửi, tiền vay trên liên NH. Khi đó, thị trường liên NH mới vận hành lại bình thường trên cơ sở niềm tin như trước đây. 

Thiên Ngân

 SGĐT

 


NHNN: Tăng trưởng tín dụng quý I/2012 âm 1,96%

Ngày đăng : 17/04/2012 - 8:00 PM

 NHNN: Tăng trưởng tín dụng quý I/2012 âm 1,96%

http://cafef.vcmedia.vn/thumb_w/252/Images/Uploaded/Share/2012/04/17/ceo-ngan-hang-20112.jpg

Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm từ mức 11,02% vào cuối năm 2011 xuống còn 10,77% vào cuối tháng 2/2012.

NHNN chính thức công bố về thông tin hoạt động ngân hàng Quý I năm 2012. Theo đó, tín dụng đối với nền kinh tế đến 26/3/2012 ước giảm 1,96% so với cuối năm 2011.

Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm từ mức 11,02% vào cuối năm 2011 xuống còn 10,77% vào cuối tháng 2/2012.

Trước đó, Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia cho biết tính đến 20/3, tăng trưởng tín dụng cả nước ước âm 2,13%.

Tổng phương tiện thanh toán đến 26/3/2012 ước tăng 1,06% so với cuối năm 2011. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 1,39%.

Lãi suất cho vay VND phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 20-25%/năm.

Lãi suất thị trường liên ngân hàng đối với đồng nội tệ qua đêm ở mức khoảng 8-9%/năm, 1 tuần khoảng 9-10,5%/năm, 2 tuần khoảng 10-11,5%/năm, 1 tháng khoảng 12-13%/năm.

 

Theo TTVN/SBV

 


Tái cơ cấu kinh tế: Vừa đột phá, vừa tuần tự

Ngày đăng : 17/04/2012 - 10:11 AM

 

Trong hai phương cách thực hiện song song, Đề án Tái cơ cấu kinh tế nêu rõ, nếu doanh nghiệp có vai trò quyết định trong đổi mới và chuyển dịch theo cách tiệm tiến và từng bước thì với chuyển dịch tăng tốc, đột phá, vai trò của Nhà nước quan trọng hơn.

 


Công cuộc tái cơ cấu kinh tế phải được thực hiện “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột phá” (ảnh minh họa).

 

Hiện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Đề án “Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của kinh tế giai đoạn 2011-2012 và định hướng đến 2020” trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bao quát toàn bộ đề án, cơ quan soạn thảo nhấn mạnh rằng, công cuộc tái cơ cấu kinh tế phải được thực hiện “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột phá”. Trong đó, “tuần tự tiệm tiến” ở những ngành có công nghệ ít thay đổi song phải “tăng tốc đột phát” với các ngành công nghệ thay đổi nhanh, bởi những ngành này cần chọn, áp dụng các công nghệ hiện đại nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh, tăng sức bật đối với nền kinh tế.

Đề án đề cập khá rõ về định hướng về vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp, người đầu tư. Theo đó, coi doanh nghiệp có vai trò quyết định trong đổi mới và chuyển dịch theo cách tiệm tiến và từng bước.

Tuy nhiên, “đối với chuyển dịch tăng tốc, đột phá thì vai trò của Nhà nước là quan trọng hơn nhiều”. Cụ thể, Nhà nước kiến tạo và hỗ trợ phát triển bằng việc xác định ngành ưu tiên phát triển, trực tiếp hoặc tham gia đầu tư dưới các hình thức thích hợp, trực tiếp xây dựng cơ sở hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, dẫn dắt, định hướng và lôi kéo các nhà đầu tư, các bên khác có liên quan cùng tham gia thực hiện chương trình tăng tốc, đột phá phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên.

Bản đề án cũng trình ra 12 nhóm giải pháp để tái cơ cấu kinh tế, trong đó đề nghị “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh để huy động tối đa và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư tư nhân trong và ngoài nước”.

Đồng thời, Bộ KHĐT cũng cho rằng, cần phải đổi mới chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư, cơ chế quản lý đầu tư nhằm thu hút và định hướng đầu tư tư nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển các ngành, nghề ưu tiên phát triển.

Trong bản đề án này, ban soạn thảo cũng nêu rõ quan điểm, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán và các định chế tài chính là để loại bỏ các nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đồng thời, tăng cường năng lực trên tất cả các mặt và hiệu quả hoạt động của từng thành viên và của cả hệ thống.

Đích đến là làm cho hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường chứng khoán thực hiện ngày càng tốt hơn các chức năng trung gian tài chính (tức huy động và phân bổ vốn từ người tiết kiệm sang người đầu tư, và chuyển dịch vốn từ ngành và doanh nghiệp kém hiệu quả sang các ngành và doanh nghiệp có hiệu quả cao hơn) và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình.

Nằm trong kế hoạch cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh vi mô của môi trường kinh doanh, ban soạn thảo cũng nhấn mạnh đến các giải pháp đảm bảo sự bình đẳng về quyền và cơ hội kinh doanh giữa các doanh nghiệp.

Bản đề án này gồm 4 phần: Phần I đánh giá những thành tựu chủ yếu, những yếu kém cơ cấu nội tại và xác định nguyên nhân. Phần II xác định mục tiêu tổng quát, nguyên tắc và định hướng tái cơ cấu kinh tế. Phần III xác định hệ thống các giải pháp cụ thể để thực hiện các định hướng tái cơ cấu kinh tế và phần IV là tổ chức thực hiện.

Trọng tâm của đề án là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy tái cơ cấu trúc doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức… phấn đấu đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

 Bích Diệp


 

Tin mới cập nhật