Ngày đăng :
24/04/2012 - 1:27 PM
Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh thì cho rằng việc áp dụng trần lãi suất cho vay là biện pháp hành chính, chỉ dùng trong tình thế đặc biệt.
Tại cuộc họp của lãnh đạo TP.HCM với Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh sáng 23-4, nhiều ban ngành cho biết doanh nghiệp (DN) hiện gặp khó khăn vì lãi suất còn cao. Ở nhiều ngân hàng (NH), lãi suất cho vay vẫn trên 20%.
77% DN không vay được vốn
Theo báo cáo của Sở Công Thương, trong ba tháng đầu năm, số DN tiếp cận vốn vay chỉ khoảng 23% tổng DN, chủ yếu là DN sản xuất quy mô lớn.
Đại diện Hiệp hội DN TP.HCM cho biết hiện có bốn vấn đề cần giải quyết. Thứ nhất, hiện nay NH thích cho nhau vay hơn là cho DN vay. Thứ hai, hiện có chênh lệch khá xa giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra. Bởi vậy đề nghị phải ấn định luôn mức trần lãi suất cho vay. Nếu không thì quy định một khoảng cách phù hợp.
Thứ ba, Hiệp hội cho rằng “NH xem xét hồ sơ vay của DN vừa và nhỏ cũng như hồ sơ của… tập đoàn”. Bởi vậy DN nhỏ không sao tiếp cận được nguồn vốn. Thứ tư, trước đây DN chỉ cần trả nợ cũ là có thể vay mới nhưng bây giờ đến hạn DN trả thì NH cũng không cho vay. Hiệp hội gợi ý nên có chính sách hồ sơ, giãn nợ, cho vay riêng đối với DN vừa và nhỏ.
Bức xúc về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM, cho rằng lãi suất vay phù hợp là trần lãi suất huy động cộng thêm khoảng 2%, sau đó 3% rồi lên 4%, nay lên đến 8% là không còn phù hợp.
Bà cũng nhấn mạnh: “Chúng ta vẫn nói rằng lãi suất có xu hướng giảm. Theo tôi nên nói có giảm hay là không, đừng có nói xu hướng nữa!”.
Không có trần nhưng có khung
Ông Nguyễn Đồng Tiến, Phó Thống đốc NHNN, cho biết mỗi quý sẽ giảm 1% lãi suất, tháng 3 và tháng 4 đã giảm hai lần, một số NH lớn hiện đã giảm lãi suất cho vay, nơi thấp nhất là 13%. Ông cũng cho rằng nhiều NH dành ra các gói tín dụng hàng chục ngàn tỉ đồng cho DN với gói lãi suất 13%-16%.
“Bản thân NH cũng là DN, cũng có khó khăn của mình, nhất là khi chúng ta đang cơ cấu lại hệ thống NH. NH có vốn mà không cho vay được cũng là bi kịch của NH. Chúng tôi chắc chắn có những tháo gỡ. Xin khẳng định rằng tất cả NH đều có chính sách, bộ phận riêng, nguồn vốn riêng cho DN vừa và nhỏ” - ông Tiến khẳng định.
Về vấn đề quy định trần lãi suất vay, ông Tiến cho biết ở thời điểm hiện nay chúng ta buộc phải chọn trần lãi suất huy động, người ta có thể chọn NH để gửi tiền và NH có quyền chọn DN để cho vay. Dự án khác nhau, ngành nghề khác nhau thì mức độ rủi ro khác nhau. Nếu áp dụng thêm trần lãi suất cho vay thì sẽ tạo ra sự phân bố nguồn vốn không hiệu quả.
Kết luận về việc này, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng việc áp dụng trần lãi suất cho vay là biện pháp hành chính, chỉ dùng trong tình thế đặc biệt. Ông khẳng định: “Chính phủ muốn hạ lãi suất hơn cả DN. Chúng ta nên chia sẻ với DN. Không có trần lãi suất cho vay nhưng vẫn có khung lãi suất cho vay và kiểm soát được”.
Làm rõ khó khăn, kiến nghị nên cụ thể
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng đến hết quý I, tình hình kinh tế vĩ mô bắt đầu có dấu hiệu đi vào ổn định. Điều đó khẳng định mục tiêu và định hướng chúng ta đang đi là đúng. Ông chỉ đạo UBND TP.HCM làm rõ những khó khăn của DN, phân ra từng nhóm thì càng tốt. Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát lại, trên tinh thần là ưu đãi cao hơn cho một số lĩnh vực cần thiết, như y tế, giáo dục… Các hiệp hội nên có kiến nghị cụ thể là cần gì, sản phẩm cần ưu đãi thế nào… Các NH thanh tra, kiểm soát, thực hiện nghiêm việc giảm lãi suất.
Có thể giảm 50% thuế VAT
Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu để trong buổi họp thường kỳ với Chính phủ ngày 3-5 tới, đề xuất với Chính phủ giảm 50% thuế giá trị gia tăng (VAT).
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết như trên trong hội thảo nhận định kinh tế thế giới và thách thức cho VN năm 2012 do Bộ Tài chính và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tổ chức sáng 23-4.
Bộ Tài chính sẽ họp, tổng hợp ý kiến của nhóm tư vấn, chuyên gia, đánh giá thực trạng DN để đưa ra giải pháp cụ thể, trong đó có giãn thuế và giảm VAT.
Đánh giá kinh tế quý I, ông Huệ cho rằng kinh tế vĩ mô ổn định nhưng nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu của sự suy giảm, cần giải pháp kịp thời về chính sách tiền tệ, tài khóa để gỡ khó cho cộng đồng DN.
TRÀ PHƯƠNG
|
Theo Yên Trang
PLTP
|
Ngày đăng :
23/04/2012 - 1:52 PM
Sau thương vụ hợp nhất 3 NH đầu tiên, đến nay bước sang đầu quý II-2012 vẫn chưa có thêm NH nào tiến hành hợp nhất, sáp nhập.
Tuy nhiên trong cuộc họp tới đây của NHNN với 14 NHTM lớn, bên cạnh tập trung xử lý nợ xấu, nội dung cuộc họp sẽ bàn đến vấn đề xử lý 9 NHTM yếu kém trong diện bị xử lý, nhất là xử lý các khoản tiền gửi, cho vay trên liên NH (thị trường 2).
Không thể vội vàng
Chiếu theo công bố trước đây của NHNN trong quý I-2012 sẽ có 5-8 NHTM tiến hành hợp nhất, sáp nhập, có thể thấy tiến trình tái cấu trúc NHTM yếu kém đang diễn ra khá chậm. Nhiều câu hỏi đặt ra vì sao NHNN chưa có động thái quyết liệt hay chờ các NHTM yếu kém tự nguyện hợp nhất, sáp nhập?
Nhiều lo ngại nếu quá trình tái cấu trúc diễn ra trì trệ sẽ tác động ngược trở lại thị trường tiền tệ làm giảm niềm tin của người dân với hệ thống NHTM. Nhất là việc chậm xử lý các NHTM yếu kém khiến nợ xấu trên thị trường liên NH kéo dài, gây thiệt hại cho một số NHTM khỏe mạnh đã cho vay các NHTM yếu kém này vay vốn.
Tuy nhiên, theo một chuyên gia NH, không thể vội vàng trong việc xử lý các NH yếu kém. Bởi lẽ việc thực hiện hợp nhất, sáp nhập 2 hay 3 NHTM yếu kém với kỳ vọng sẽ thành một NHTM khỏe mạnh không đơn giản. “Bệnh tật” của các NHTM yếu kém không giống nhau nên cần có thời gian bắt mạch để tìm thuốc trị liệu phù hợp.
Trong đó, không loại trừ có trường hợp phải dùng cơ chế xử lý đặc biệt chưa có tiền lệ. Hơn nữa, hiện tại NHNN đang dần hoàn thiện các hành lang pháp lý cho việc tái cấu trúc hệ thống NHTM. Thời điểm này chỉ có thể kỳ vọng NHNN giám sát chặt chẽ hoạt động NHTM yếu kém và có biện pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời, nhằm tránh các NHTM này lách luật trong hoạt động, gây bất ổn thị trường.
Tuy nhiên, giới NH thừa nhận việc sắp xếp, xử lý các NHTM yếu kém chậm trễ đang tạo nên sự bất ổn trong chính nội bộ các NHTM yếu kém. Đơn cử, đầu tiên là lãnh đạo “dàn khung” ở các NHTM nhỏ được dự đoán nằm trong danh sách 9 NHTM yếu kém sẽ có tâm lý bất an về việc sắp xếp nhân sự khi việc hợp nhất diễn ra. Thực tế đã có không ít người đang âm thầm tìm kiếm vị trí mới ở NHTM khác.
Điều này vô tình càng gây khó cho các NHTM yếu kém. Chưa kể thông tin đồn đoán kéo dài cũng tạo tâm lý bất an trong nhân viên. Theo nhiều chuyên gia, sau khi cho phép thực hiện hợp nhất 3 NH đầu tiên, NHNN có thể rút ra được bài học kinh nghiệm khi hợp nhất, sáp nhập các NHTM khác.
Việc lỡ hẹn xử lý NHTM yếu kém không phải là vấn đề đáng lo ngại, mà hiệu quả mang lại trong hoạt động của NH sau tái cấu trúc mới quan trọng. Vì thế đòi hỏi NHNN phải tính toán chặt chẽ cách thức tổ chức, cơ cấu nhân sự, chi phí, việc tham gia của nhà đầu tư mới… đối với NHTM yếu kém. Có như vậy những NHTM sau hợp nhất, sáp nhập mới phát triển một cách hòa hợp và bền vững.
Gỡ khó trước mắt
Từ cuối quý I-2012 đến nay lãi suất trên thị trường liên NH luôn ở mức rất thấp khiến hoạt động kinh doanh của các NHTM trên thị trường này rất èo uột. Thời điểm này những NHTM có thế mạnh kinh doanh trên thị trường liên NH buộc phải dùng vốn chủ yếu mua tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu chính phủ, thay vì tập trung cho các NHTM vay lẫn nhau.
Một phó tổng giám đốc NH cổ phần cho biết hiện tại trên thị trường liên NH chỉ những NHTM khỏe chơi với nhau, nhưng các NHTM này đều trong tình trạng thừa vốn nên hoạt động vay mượn giải quyết thanh khoản gần như không có.
Trong khi đó các NHTM bậc trung và nhỏ khi có nhu cầu vay lại bị các NHTM lớn gây khó khăn như yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Còn những NHTM nhỏ yếu kém hầu như không thể chen được vào thị trường này.
Trong cuộc họp vừa qua với 14 NHTM lớn, NHNN kêu gọi các NHTM nên giảm bớt những yêu cầu quá khắt khe trong hoạt động liên NH để thị trường có thể hoạt động bình thường trở lại. Điều này là cần thiết để giúp thị trường tiền tệ vận hành một cách ổn định, tránh tình trạng một số NHTM nhỏ vì khó vay trên liên NH đã xé rào vượt trần lãi suất, tạo nên sóng mới cho lãi suất huy động tiền gửi trên thị trường dân cư.
Tuy nhiên, theo một lãnh đạo NH cổ phần, tình trạng nợ xấu liên NH trong năm qua cũng để lại bài học cay đắng cho nhiều NHTM, nhất là ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong năm 2011 của các NH. Hơn nữa, theo sửa đổi mới của NHNN về phân loại nợ, nhiều khả năng những khoản nợ tín dụng trên thị trường liên NH cũng phải được phân loại và trích lập dự phòng rủi ro.
Vì vậy, thời điểm này trong bối cảnh nợ xấu của hệ thống NHTM đang tăng nhanh, các NHTM sẽ phải cẩn trọng hơn khi cho các NHTM yếu vay vốn, ngoại trừ NHNN có cơ chế bảo lãnh đặc biệt với các NHTM nhỏ. Nhiều kỳ vọng trong cuộc họp kỳ tới của NHNN với 14 NHTM lớn sẽ tìm ra hướng xử lý dứt điểm các khoản tiền gửi, tiền vay trên liên NH. Khi đó, thị trường liên NH mới vận hành lại bình thường trên cơ sở niềm tin như trước đây.
Thiên Ngân
SGĐT
|
Ngày đăng :
17/04/2012 - 8:00 PM
NHNN: Tăng trưởng tín dụng quý I/2012 âm 1,96%

Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm từ mức 11,02% vào cuối năm 2011 xuống còn 10,77% vào cuối tháng 2/2012.
NHNN chính thức công bố về thông tin hoạt động ngân hàng Quý I năm 2012. Theo đó, tín dụng đối với nền kinh tế đến 26/3/2012 ước giảm 1,96% so với cuối năm 2011.
Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm từ mức 11,02% vào cuối năm 2011 xuống còn 10,77% vào cuối tháng 2/2012.
Trước đó, Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia cho biết tính đến 20/3, tăng trưởng tín dụng cả nước ước âm 2,13%.
Tổng phương tiện thanh toán đến 26/3/2012 ước tăng 1,06% so với cuối năm 2011. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 1,39%.
Lãi suất cho vay VND phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 20-25%/năm.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng đối với đồng nội tệ qua đêm ở mức khoảng 8-9%/năm, 1 tuần khoảng 9-10,5%/năm, 2 tuần khoảng 10-11,5%/năm, 1 tháng khoảng 12-13%/năm.
Theo TTVN/SBV
|
Ngày đăng :
17/04/2012 - 10:11 AM
Trong hai phương cách thực hiện song song, Đề án Tái cơ cấu kinh tế nêu rõ, nếu doanh nghiệp có vai trò quyết định trong đổi mới và chuyển dịch theo cách tiệm tiến và từng bước thì với chuyển dịch tăng tốc, đột phá, vai trò của Nhà nước quan trọng hơn.

Công cuộc tái cơ cấu kinh tế phải được thực hiện “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột phá” (ảnh minh họa).
Hiện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Đề án “Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của kinh tế giai đoạn 2011-2012 và định hướng đến 2020” trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bao quát toàn bộ đề án, cơ quan soạn thảo nhấn mạnh rằng, công cuộc tái cơ cấu kinh tế phải được thực hiện “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột phá”. Trong đó, “tuần tự tiệm tiến” ở những ngành có công nghệ ít thay đổi song phải “tăng tốc đột phát” với các ngành công nghệ thay đổi nhanh, bởi những ngành này cần chọn, áp dụng các công nghệ hiện đại nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh, tăng sức bật đối với nền kinh tế.
Đề án đề cập khá rõ về định hướng về vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp, người đầu tư. Theo đó, coi doanh nghiệp có vai trò quyết định trong đổi mới và chuyển dịch theo cách tiệm tiến và từng bước.
Tuy nhiên, “đối với chuyển dịch tăng tốc, đột phá thì vai trò của Nhà nước là quan trọng hơn nhiều”. Cụ thể, Nhà nước kiến tạo và hỗ trợ phát triển bằng việc xác định ngành ưu tiên phát triển, trực tiếp hoặc tham gia đầu tư dưới các hình thức thích hợp, trực tiếp xây dựng cơ sở hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, dẫn dắt, định hướng và lôi kéo các nhà đầu tư, các bên khác có liên quan cùng tham gia thực hiện chương trình tăng tốc, đột phá phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên.
Bản đề án cũng trình ra 12 nhóm giải pháp để tái cơ cấu kinh tế, trong đó đề nghị “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh để huy động tối đa và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư tư nhân trong và ngoài nước”.
Đồng thời, Bộ KHĐT cũng cho rằng, cần phải đổi mới chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư, cơ chế quản lý đầu tư nhằm thu hút và định hướng đầu tư tư nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển các ngành, nghề ưu tiên phát triển.
Trong bản đề án này, ban soạn thảo cũng nêu rõ quan điểm, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán và các định chế tài chính là để loại bỏ các nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đồng thời, tăng cường năng lực trên tất cả các mặt và hiệu quả hoạt động của từng thành viên và của cả hệ thống.
Đích đến là làm cho hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường chứng khoán thực hiện ngày càng tốt hơn các chức năng trung gian tài chính (tức huy động và phân bổ vốn từ người tiết kiệm sang người đầu tư, và chuyển dịch vốn từ ngành và doanh nghiệp kém hiệu quả sang các ngành và doanh nghiệp có hiệu quả cao hơn) và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình.
Nằm trong kế hoạch cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh vi mô của môi trường kinh doanh, ban soạn thảo cũng nhấn mạnh đến các giải pháp đảm bảo sự bình đẳng về quyền và cơ hội kinh doanh giữa các doanh nghiệp.
Bản đề án này gồm 4 phần: Phần I đánh giá những thành tựu chủ yếu, những yếu kém cơ cấu nội tại và xác định nguyên nhân. Phần II xác định mục tiêu tổng quát, nguyên tắc và định hướng tái cơ cấu kinh tế. Phần III xác định hệ thống các giải pháp cụ thể để thực hiện các định hướng tái cơ cấu kinh tế và phần IV là tổ chức thực hiện.
Trọng tâm của đề án là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy tái cơ cấu trúc doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức… phấn đấu đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Bích Diệp
|
Ngày đăng :
13/04/2012 - 9:23 AM
Đến chiều 12.4, nhiều ngân hàng đã tuyên bố hạ lãi suất cho vay. Tuy nhiên, cả phía ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều lo lắng việc không còn khả năng hấp thụ vốn.
Nhiều ngân hàng thương mại đã đưa lãi suất huy động về 12%/năm như BIDV, VietinBank, Agribank, Techcombank, TienphongBank, ABBank... Về lãi suất cho vay, BIDV ngay chiều ngày 11.4 đã công bố mức giảm 1 – 2,5%/năm. Mức lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường giảm sâu 2,5% so với trước, còn 14,5%/năm...
Ông Trương Văn Phước, tổng giám đốc ngân hàng Eximbank cho hay, nhu cầu vốn của doanh nghiệp ở Eximbank không còn cao như trước, sức hấp thụ vốn của họ giảm mạnh. “Ngân hàng tiếp cận cho vay nhưng họ không có nhu cầu vay”, ông nói.
Ông Phạm Thiện Long, phó tổng giám đốc ngân hàng HDB cũng cho biết, lãi suất huy động còn 12%, HDB sẽ giảm lãi suất cho vay tương ứng 1%. “Mấy ngày nay lãi suất giảm mà doanh nghiệp không mặn mà. Người ta vay vốn làm gì khi hàng tồn kho không bán được?” ông nói.
Vay vốn làm gì?
Theo ông Phước, lãi suất chưa phải là yếu tố chính, mà hàng hoá đang tồn kho cao, sản xuất đình đốn, hàng làm ra không bán được, khoản phải thu thì đòi chưa được, sức cầu giảm sút… đã khiến các doanh nghiệp không nghĩ đến chuyện vay vốn.
Ông Dương Ngọc Minh, tổng giám đốc công ty cổ phần thuỷ sản Hùng Vương, phó chủ tịch Vasep, nêu thực trạng: những năm trước, doanh nghiệp có hợp đồng mua cá và nhập kho là ngân hàng cho vay, nhưng từ hơn một năm nay, ngân hàng không cho vay nữa. Doanh nghiệp không có vốn tự đầu tư nuôi cá, không có tiền mua cá của dân về chế biến nên ngưng sản xuất. Khi không tham gia thị trường, không có đơn hàng thì làm sao có hợp đồng để thế chấp vay theo điều kiện mà ngân hàng yêu cầu.
Những lý do trên đã khiến các chương trình cho vay lãi suất ưu đãi của Eximbank giải ngân khá chậm. Tương tự, ở ACB, ông Đỗ Minh Toàn, phó tổng ngân hàng cho biết, ACB đang dư 3 tỉ USD không cho vay được vì doanh nghiệp không thể tiếp nhận vốn. Ông Phạm Thiện Long, phó tổng giám đốc ngân hàng HDB cho hay, mọi năm, bình quân ba tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng chiếm 20 – 30% của cả năm, thì bây giờ ở HDB chỉ tăng 200 – 300 tỉ đồng, còn lại là cơ cấu lại các khoản nợ.
Còn tổng giám đốc ngân hàng Vietcombank Nguyễn Phước Thanh cho rằng, phải rất nỗ lực, tín dụng của Vietcombank mới có thể tăng khoảng 6.000 – 7.000 tỉ đồng trong hai quý tới đây.
Chờ lãi suất giảm thêm
Theo khảo sát nội bộ của một ngân hàng thương mại hàng đầu đối với các doanh nghiệp đang có dư nợ ở ngân hàng này, lãi vay chiếm 24% trong tổng giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Chính vì vậy, gánh nặng đã đè lên vai nhiều doanh nghiệp khi lợi nhuận làm ra không đủ để trả lãi vay.
Nay lãi suất tuy đã giảm, nhưng vẫn ở mức rất cao. Theo ông Long, những doanh nghiệp xuất khẩu, thương mại… là sống nổi hiện nay vì có thể vay USD với giá 4,5%/năm, rẻ hơn rất nhiều so với lãi suất tiền đồng.
Theo TS Lê Đạt Chí, trưởng bộ môn tài chính – doanh nghiệp trường đại học Kinh tế TP.HCM, lãi suất chỉ là giọt nước làm tràn ly khó khăn của doanh nghiệp. Căn cơ của nền kinh tế hiện nay vẫn là việc doanh nghiệp đình đốn sản xuất. Ông cho rằng, ngân hàng Nhà nước hy vọng việc giảm lãi suất sẽ tác động đến tăng đầu tư, tăng chi tiêu. Song, lãi suất giảm không có nghĩa là tăng chi tiêu. Vì vậy, cho dù lãi suất có giảm, doanh nghiệp vẫn chờ đợi một tổng cầu khác được kích thích từ Nhà nước để giải toả được tồn kho, luân chuyển được dòng vốn. Hơn nữa, lãi suất trong xu hướng hạ, nên những doanh nghiệp chưa bức bách vốn có tâm lý chờ lãi suất giảm thêm.
Khó “kích” bất động sản
Tổng giám đốc ngân hàng Vietcombank Nguyễn Phước Thanh cho rằng, việc nới tín dụng với hàng loạt đối tượng trong lĩnh vực bất động sản, tiêu dùng phần nào đó cũng tăng cơ hội kinh doanh cho các ngân hàng, mặt khác tác động đến thị trường bất động sản, song cũng chỉ ở mức độ nào đó. Bởi như Vietcombank, tỷ trọng cho vay bất động sản, tiêu dùng của ngân hàng chỉ ở mức 8 – 9%, chỉ tiêu hết hơn nửa “room” của ngân hàng Nhà nước.
Chính sách mới cũng khuyến khích nhu cầu vay vốn để mua, sửa chữa nhà cửa cho những người có nhu cầu thực về nhà ở, song theo ông Thanh, “kích cầu” đối tượng này không dễ. “Giá bất động sản hiện nay dù đã giảm nhưng vẫn còn cao, cộng với lãi suất ngân hàng, người làm công ăn lương ai dám vay vì lấy đâu tiền trả nợ. Nên nếu có mở tín dụng bất động sản thì dòng vốn chủ yếu đổ vào các chủ đầu tư, doanh nghiệp hoặc nhà đầu cơ”, ông Thanh nói và cho biết thêm, dư nợ tín dụng cho nhu cầu mua, sửa chữa nhà để ở của Vietcombank chỉ chiếm khoảng 3% dư nợ bất động sản.
Hồng Sương - Xuân Thu - Hoàng Bảy
SGTT
|