Kinh tế vĩ mô: Từ 6 tháng nhìn đến cả năm

Ngày đăng : 02/07/2012 - 8:49 AM

 

 

Kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên, với CPI tính theo năm vào tháng 12 được xác định lần đầu là dưới 10%, gần đây được cụ thể hoá là 7-8%.

 

CPI tính theo tháng sau khi tăng trưởng tương đối cao vào 2 tháng đầu năm, CPI đã tăng thấp trong 3 tháng sau đó, đặc biệt đã giảm vào tháng 6, tháng giảm đầu tiên sau 38 tháng tăng liên tục (tính từ tháng 3/2009). 

CPI sau 6 tháng mới tăng 2,52%, thấp nhất so với cùng kỳ trong 9 năm qua (tính từ năm 2004). CPI tính theo năm sau khi đạt đỉnh vào tháng 8/2011 (23,02%), đã tăng chậm lại liên tục và còn 6,9% vào tháng 6/2012.

Theo dự báo, CPI tính theo năm sẽ còn giảm trong khoảng 3 tháng nữa, sau đó có thể tăng lên nhưng đến tháng 12 cũng sẽ thấp hơn mục tiêu đề ra. 

Đây trước hết là kết quả tích cực của việc kiên trì, nhất quán và quyết liệt trong việc thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, trong nhiều nguyên nhân làm cho CPI tăng chậm lại nhanh, có nguyên nhân quan trọng do đầu tư và tiêu dùng bị co lại. Tỷ lệ đầu tư/GDP từ mức trên 40% trong nhiều năm trước, đến 2011 đã giảm nhanh còn 34,6%; mục tiêu năm 2012 còn thấp hơn (33,5%) và thực hiện 6 tháng còn 34,5%. Đến lượt nó sẽ dẫn đến hai hiện tượng. 

(1) Tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn ở cả 2 đầu với 2 điểm nghẽn lớn: nợ xấu và tồn kho vừa cao, vừa tăng. 

(2) Để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ thị trường, phải nới lỏng tiền tệ, tài khoá, dễ làm cho lạm phát cao trở lại vào năm sau, như đã từng lặp đi lặp lại trong 9 năm qua (cứ một năm tăng thấp hơn thì có 2 năm tăng cao, thậm chí rất cao).

Mục tiêu này có nhiều nội dung, trong đó cân đối thương mại là một nội dung quan trọng. Quan hệ mất cân đối này đã được thu hẹp đáng kể, khi nhập siêu 6 tháng đầu năm 2012 chỉ bằng một phần mười so với cùng kỳ năm trước cả về kim ngạch tuyệt đối (685 triệu USD so với 6.900 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (1,3% so với 15,9%). 

Đạt được kết quả này do 6 tháng này so với cùng kỳ năm trước, tăng trưởng xuất khẩu cao hơn tăng trưởng nhập khẩu (22,3% so với 6,9%). 

Tăng trưởng nhập khẩu thấp do nhiều nguyên nhân; có nguyên nhân do giá nhập khẩu không tăng cao như trước, thậm chí có nhiều mặt hàng còn bị giảm, như giá hạt điều, lúa mì, ngô, đậu tương, chất dẻo nguyên liệu, giấy các loại, bông các loại, xơ sợi dệt các loại, sắt thép các loại, kim loại thường khác,... 

Nhiều mặt hàng có kim ngạch giảm với tốc độ cao là hạt điều, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên liệu, phụ liệu thuốc lá, xăng dầu các loại, khí đốt hoá lỏng, phân bón các loại, chất dẻo các loại, sản phẩm từ giấy, bông các loại, xơ sợi dệt các loại, vải các loại, sắt thép các loại, kim loại thường khác, hàng điện gia dụng và linh kiện. 

Ôtô nguyên chiếc các loại, linh kiện, phụ tùng ô tô, xe máy nguyên chiếc, linh kiện phụ tùng xe máy, phương tiện vận tải khác và phụ tùng. Một số loại khác tuy có tăng, nhưng tốc độ tăng rất nhẹ, thấp xa so với các thời kỳ trước đây, như máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may, da, giày.

Nhập siêu giảm đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá, góp phần giảm áp lực tâm lý kỳ vọng lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,... Tuy nhiên, nhập siêu giảm, nhập khẩu tăng thấp, nhiều mặt hàng còn bị giảm có nguyên nhân quan trọng do tình hình đầu tư, sản xuất, tiêu dùng ở trong nước bị co lại; đến lượt nó lại làm cho chu kỳ sau của tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu bị ảnh hưởng.

Kết quả 6 tháng là tín hiệu khả quan cho cả năm. Xuất khẩu mục tiêu cả năm tăng 13%, tức là phải đạt khoảng 109,5 tỷ USD. Nhiệm vụ còn lại phải đạt 56,4 tỷ USD, tức là 9,4 tỷ USD/tháng. Xuất khẩu bình quân 1 tháng trong 2 tháng nay đạt trên 9,72 tỷ USD. 

Nếu 6 tháng tới đạt mức bình quân này thì tổng số sẽ đạt trên 58,3 tỷ USD và cả năm sẽ đạt 111,5 tỷ USD, không những vượt kế hoạch mà lần đầu tiên vượt qua mốc 110 tỷ USD. Nhập khẩu, mức bình quân 2 tháng qua đạt 10,06 tỷ USD/tháng. Nếu 6 tháng tới đạt bằng mức cao này thì tổng số sẽ đạt 60,4 tỷ USD và cả năm sẽ đạt khoảng 114,2 tỷ USD. 

Theo đó, nhập siêu cả năm sẽ vào khoảng 3,7 tỷ USD và tỷ lệ nhập siêu sẽ vào khoảng 3,3%-vừa thấp xa so với năm trước, vừa thấp xa so với chỉ tiêu kế hoạch. 

Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm nay có một số điểm đáng lưu ý. 

Thấp xa so với tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước (5,63%). Thấp hơn cùng kỳ năm trước diễn ra ở 2 nhóm ngành có tỷ trọng cao (nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,81% so với 2,08%; nhóm ngành công nghiệp và xây dựng tăng 3,81% so với khoảng 6,49%; nhóm ngành dịch vụ tăng 5,57% so với khoảng 6,12%). 

Nhóm ngành công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất và trong những năm trước kia thường có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 3 nhóm ngành, trở thành đầu tàu và động lực tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế, thì nay đã xuống sâu và phục hồi chậm. Trong đó, ngành xây dựng tăng trưởng âm vừa kéo ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng giảm, vừa trực tiếp kéo tăng trưởng của toàn nhóm ngành công nghiệp và xây dựng xuống theo. 

Thấp xa so với mục tiêu đề ra cho cả năm (6-6,5%). Với tốc độ tăng 4,38% của 6 tháng đầu năm, muốn đạt được mục tiêu cả năm, thì 6 tháng cuối năm, theo tính toán sơ bộ phải tăng từ 7,62 đến 8,62%. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề, rất khó đạt được khi nền kinh tế vừa chuyển từ lạm phát sang thiểu phát. 

Theo dự đoán của nhiều chuyên gia ở trong nước và quốc tế, khả năng cả năm chỉ tăng khoảng 5,5-5,6%-vừa thấp hơn mục tiêu, vừa thấp hơn năm trước (5,89%).

Theo Dương Ngọc
VnEconomy

 

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

'Đã đến lúc chuẩn bị cho giai đoạn kinh tế phục hồi'

Ngày đăng : 29/06/2012 - 9:33 AM

 

 

Theo ông Trần Du Lịch, ủy viên UBKT Quốc hội, kinh tế đã chạm đáy, bắt đầu phục hồi, vì vậy DN cần sẵn sàng kế hoạch cho chu kỳ mới theo hướng quan tâm nhiều hơn vào lĩnh vực cốt lõi của mình.

 

Lạm phát tiếp tục giảm, sản xuất có dấu hiệu tăng trở lại và tín dụng cho nền kinh tế bớt âm. Theo ông những tín hiệu này nói lên điều gì?

- Xét về tình hình vĩ mô, tôi cho rằng những khó khăn của kinh tế Việt Nam đã chạm đáy rồi và hiện giờ là trong giai đoạn hồi phục.

Riêng chỉ số CPI 6 tháng đầu năm giảm ở mức thấp, cần nhìn nhận rằng đây không phải do chi phí sản xuất giảm mà là kết quả tổng cầu giảm vì sức mua suy yếu. Do đó, tất cả những yếu tố này chỉ mang tính tạm thời, nếu Việt Nam không cẩn thận, lạm phát rất dễ bùng phát. Khi đó, cái vòng luẩn quẩn chống lạm phát lại giảm phát, đến khi chống giảm phát lại lạm phát đã diễn ra từ năm 2007 sẽ tái diễn thì rất nguy hiểm.

Thưa ông, dựa trên những cơ sở nào ông cho là kinh tế Việt Nam đã chạm đáy và đang trong quá trình hồi phục?

- Tôi có cơ sở về nhận định này. Đó là tăng trưởng kinh tế quý II ước đạt 4,5%, cao hơn mức 4% của quý I (mức đáy và không thể thấp hơn). Chỉ số phát triển doanh nghiệp cũng bắt đầu bớt tiêu cực hơn. 5 tháng đầu năm, có khoảng 21.800 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, tăng 9,5%, so với cùng kỳ. Tuy nhiên, riêng tháng 5, số doanh nghiệp “chết” đã bắt đầu giảm khoảng 10% so với tháng 4.

Ngoài ra, hàng tồn kho của doanh nghiệp cũng có xu hướng giảm dần, từ mức cao 34,9% của tháng 3 xuống lần lượt 32,1% và 29,4% trong tháng 4 và 5. Và đến 1/6 chỉ còn khoảng 26,4%.

Lãi suất cho vay tính đến 21/6 cũng đã giảm gần 3%, tiền đồng được cải thiện và ổn định hơn nhiều. Nhu cầu tiêu dùng bắt đầu quay trở lại, kích thích sản xuất. Một số yếu tố khách quan như giá dầu thô đã ổn định, kinh tế Mỹ cũng đã khởi sắc và điều đó giúp Việt Nam tăng xuất khẩu, đầu tư. Rõ ràng khủng hoảng đã chạm đáy và sự phục hồi đang diễn ra.

Vậy để đón đầu xu hướng phục hồi của nền kinh tế, theo ông Việt Nam nên làm gì?

-Trước hết, về phía doanh nghiệp cần sẵn sàng chuẩn bị cho chu kỳ tới, khi khó khăn qua đi sẽ có nguồn lực tốt để tăng tốc phát triển. Trong đó, một nguyên tắc cần ghi nhớ là xây dựng chiến lược phát triển hệ thống càng đơn giản càng tốt, tối đa hóa hoạt động để tập trung vào lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.

Vấn đề quan trọng là doanh nghiệp cần nghiêm túc đánh giá lại năng lực của mình như: sử dụng nhân lực, nguồn vốn có hợp lý hay không, sản phẩm đã phù hợp với thị trường chưa…, từ đó đưa ra chiến lược phù hợp với thời điểm hiện tại.

Về phía cơ quan quản lý cần nhìn nhận rằng với tình hình này, nếu không có động tĩnh can thiệp gì thì CPI đến hết năm nay chỉ tăng khoảng 5-6%. Do đó, về chính sách, chúng ta cần chủ trương chuyển hướng chống lạm phát sang chủ động đưa CPI lên 8% vào cuối năm nay. Lúc đó, chính sách tài khóa sẽ có dư địa 3% để đưa tăng trưởng kinh tế lên khoảng 5,5% là đạt yêu cầu.

Tuy nhiên, để tránh rơi vào vòng luẩn quẩn, chống lạm phát lại suy giảm, chống suy giảm lại tăng lạm phát như tôi đã nêu... thì lần này Chính phủ có sự đổi mới cách làm. Theo đó, mặc cho nền kinh tế 'kêu than' dữ dội nhưng Thủ tướng chủ trương chỉ tăng tổng cầu trong kế hoạch chứ không phá kế hoạch. Thứ hai là chỉ hỗ trợ thị trường chứ không cứu doanh nghiệp bằng biện pháp hỗ trợ lãi suất như năm 2009.

Theo quan điểm cá nhân tôi, để hỗ trợ nền kinh tế, Chính phủ hiện nay đang có dư địa rất lớn từ hai công cụ là tiền tệ và tài khóa chứ không phải bế tắc như năm ngoái. Xét về chính sách tiền tệ, tính tới 21/6, tăng trưởng tín dụng chỉ mới trên dưới 0%. Như vậy, kế hoạch tăng trưởng 15-17% vẫn còn nguyên. Giả sử năm nay Việt Nam chỉ cần tăng trưởng tín dụng 10% thì từ giờ đến cuối năm, mỗi tháng sẽ cung ra thị trường khoảng 50.000 tỷ đồng.

Thứ hai về nguồn ngân sách (gồm đầu tư của nhà nước và trái phiếu), từ nay đến cuối năm mỗi tháng có thể bơm ra hơn 21.000 tỷ đồng. Vậy tổng cộng hai khoảng này mỗi tháng Việt Nam có thể bơm ra nền kinh tế 71.000 tỷ đồng để kích thích sản xuất, tăng trưởng GDP.

Với nguồn lực lớn như vậy, lãi suất lại liên tục được Ngân hàng Nhà nước cắt giảm trong khoảng thời gian vừa qua, nhưng thưa ông vì sao nền kinh tế vẫn thiếu vốn?

- Theo tôi đó là do Việt Nam đang vướng 'cục máu đông' là nợ xấu và sức mua thị trường suy yếu. Hai yếu tố này đã chặn lại dòng vốn ra thị trường. Từ nay đến cuối năm làm sao phải hấp thụ được lượng tiền 71.000 tỷ đồng mỗi tháng mới là vấn đề mấu chốt để thúc đẩy tăng trưởng.

Muốn vậy, trên góc độ chính sách tiền tệ, ngân hàng phải tập trung cho nông nghiệp nông thôn và gỡ khó dần cho bất động sản. Riêng cục máu đông nợ xấu, (không xét đến yếu tố thành lập công ty mua bán nợ Quốc gia 100.000 tỷ) thì trước hết, bản thân các ngân hàng phải có trách nhiệm giải quyết.

Theo đó, tôi cho rằng, những nhà băng trong nhóm G14 có lãi, cần trích lập dự phòng 70% cho nợ xấu, phần còn lại các nhà băng khác dùng công cụ mua nợ để giảm nợ xấu xuống. Bằng mọi giá, trong năm nay phải giảm cục máu đông này thì mới mong khai thông được nguồn vốn.

Hiện nay, việc Ngân hàng Nhà nước cho các nhà băng được tự do thỏa thuận lãi suất tiết kiệm dài hạn với khách hàng nhưng vẫn siết kỳ hạn ngắn khiến nhiều người lo ngại xảy ra tình trạng lách luật và làm méo mó thị trường. Ông nhận định sao về chủ trương này?

- Tuy hiện nay vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng cơ bản đã được giải quyết, nhưng vẫn còn căng thẳng đối với một vài nhà băng nhỏ. Do đó, nếu tự do hóa lãi suất vào thời điểm này, các nhà băng yếu kém có thể đẩy cao lãi suất huy động để hút vốn bù đắp thanh khoản, châm ngòi cho cuộc đua lãi suất. Khi đó, mặt bằng chung sẽ bị đẩy lên cao càng gây khó cho nền kinh tế.

Theo tôi, chỉ khi nào giải quyết được cục máu đông nợ xấu và xử lý triệt để các ngân hàng yếu kém thì mới dỡ trần lãi suất được. Và đến khi kinh tế thực sự ổn định thì phải bỏ các biện pháp hành chính, trả lại theo cơ chế thị trường.

Theo Lệ Chi

VnExpress

 

 


FDI: Sao phải giữ bằng mọi giá?

Ngày đăng : 28/06/2012 - 9:42 AM

 

 

Đang có sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Việt Nam sang những nước khác, do một số lợi thế cạnh tranh NHƯ nhân công rẻ, các ưu đãi về thuế, đất đai đang dần hết tác dụng.

 

FDI là khu vực đóng góp khá lớn cho nền kinh tế Việt Nam và vì thế, theo một số ý kiến, sự ra đi của dòng vốn này rất đáng báo động.

 

Thế nhưng, nhìn lại những gì Việt Nam có được sau 25 năm thu hút FDI, Tiến sĩ Đặng Xuân Thanh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, cho rằng nên chấp nhận sự ra đi của một số nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí là tạo điều kiện để họ ra đi.

 

Việt Nam đã được những gì sau 25 năm thu hút FDI?

 

Từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1987) đến nay, Việt Nam đã thu hút trên 200 tỉ USD vốn đăng ký, hơn 90 tỉ USD vốn thực hiện. Dòng vốn này đã đóng góp 56% cho xuất khẩu, trên 1/4 tổng sản phẩm quốc nội và tạo ra hơn 2 triệu việc làm.

 

Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy có tới 67% doanh nghiệp FDI đầu tư vào những ngành có giá trị gia tăng thấp. Phần lớn họ đều có trình độ công nghệ thấp, tập trung khai thác tài nguyên, gia công lắp ráp, sử dụng lao động giá rẻ, ít kỹ năng.

 

Đó là chưa kể đến việc không ít doanh nghiệp FDI trốn thuế hoặc chuyển giá và đặc biệt là từ 30-50% doanh nghiệp FDI báo lỗ. Liệu có tình trạng lỗ giả, lãi thật hay không thì còn phải xem xét thêm. Nhưng đã thấy có chuyện họ khai thác tài nguyên bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường như vụ việc của Vedan, Miwon hay TungKuang.

 

Trong khi đó, chỉ khoảng 5% doanh nghiệp FDI là hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao như Samsung, Foxconn; 5% số dự án khác thuộc ngành dịch vụ, khoa học công nghệ; 3,5% thuộc lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm.

 

Nhìn chung, sau 25 năm, chúng ta vẫn chưa có một chiến lược thu hút FDI tạo sự lan tỏa cho nền kinh tế.

 

Đây có phải là nguyên nhân khiến dòng vốn FDI đang chảy sang những nước khác trong khu vực?

 

Lý do các chuyên gia kinh tế đưa ra là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm sụt giảm đầu tư FDI trên bình diện toàn cầu. Vì thế, dòng vốn vào Việt Nam cũng bị sụt giảm. Tuy nhiên, số liệu thống kê cuối năm 2011 cho thấy FDI trên toàn cầu đã phục hồi trở lại ở mức trước khủng hoảng là 1.500 tỉ USD. Trong khi đó, vốn vào Việt Nam lại giảm khá nhanh và liên tục từ năm 2011 đến nay.

 

Một thực tế là chúng ta chưa tận dụng tốt dòng vốn FDI để có công nghệ hiện đại và quản lý tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều đó cho thấy chính sách thu hút FDI của Việt Nam tương đối dễ dãi và đặc biệt là thiếu chọn lọc. Nghịch lý ở chỗ, đó chính là nguyên nhân giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài ở lại Việt Nam nhằm tiếp tục khai thác tài nguyên, đất đai giá rẻ, lao động rẻ. Vì thế, chúng ta cũng không nên quá lo ngại về việc dòng vốn FDI có trình độ công nghệ và quản lý thấp chuyển sang những nước khác.

 

Vấn đề là ở chỗ chúng ta có tạo được lợi thế cạnh tranh mới, nâng cao được năng lực cạnh tranh quốc gia để thu hút dòng vốn FDI có công nghệ cao hơn, trình độ quản lý tiên tiến hơn hay không. Việc thay máu FDI sẽ giúp Việt Nam tái cơ cấu và thay đổi mô hình tăng trưởng, chuyển dịch lên mắt xích cao hơn trong chuỗi giá trị gia tăng khu vực và toàn cầu.

 

Có vẻ một số nước như Myanmar, Campuchia, Bangladesh đã rút được kinh nghiệm từ Việt Nam và đang cải cách mạnh mẽ để tranh thủ dòng FDI?

 

Chuyện dịch chuyển chắc chắn sẽ xảy ra khi lợi thế cạnh tranh giảm đi và Campuchia, Myanmar, Bangladesh chắc chắn sẽ tận dụng cơ hội khi chúng xuất hiện. Hiện nay, khi Việt Nam tụt hạng về môi trường kinh doanh nói chung và về thị trường tài chính, thị trường bán lẻ nói riêng, đặc biệt là khi kinh tế vĩ mô vẫn chưa phục hồi thì các nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn có lý do để cân nhắc chuyển vốn sang nước khác.

 

Nghĩa là chúng ta chấp nhận sự dịch chuyển này?

 

Giống như một cuộc đua thuyền buồm, người đi sau sẽ rút kinh nghiệm để không phạm sai lầm của người đi trước. Trong trường hợp này, các nước nói trên có thể rút kinh nghiệm từ Việt Nam để rút ngắn quá trình thu hút vốn đầu tư nhằm phục vụ công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa nước họ.

 

Như đã nói, không nên và cũng không thể kìm hãm sự dịch chuyển vốn đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Và chúng ta không thể mãi cạnh tranh bằng giá nhân công rẻ, bằng ưu đãi đất đai, tài nguyên môi trường. Vì thế, cần phải tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện sự dịch chuyển đó.

 

Vậy chúng ta phải làm gì để có thể thu hút dòng vốn FDI mới?

 

Trong cuộc đua này, có thể những nước đi trước cũng bị mất đi lợi thế một cách nhanh chóng. Do đó, về dài hạn, chúng ta phải tạo ra những ưu thế cạnh tranh cao hơn, vượt trội hơn, thông qua việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cấp nguồn nhân lực. Còn trong ngắn hạn thì cần ổn định tình hình vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế, trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công. Đặc biệt cụ thể hơn là cải cách đất đai, tiền lương, cải cách hành chính và an sinh xã hội.

 

Một điều nữa là cần tránh cấp phép FDI một cách thiếu chọn lọc, tràn lan, hạ thấp chuẩn mực mà Việt Nam cần phải có trong tương lai để nâng cao tầm vóc của mình.

 

Theo Vũ Dũng

NCĐT

 

 


“Vốn FDI từ châu Âu vào Việt Nam có thể sắp tăng trở lại”

Ngày đăng : 27/06/2012 - 9:08 AM

 

 

Tiến trình đàm phán thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam có thể mở đường cho hoạt động đầu tư nước ngoài (FDI) của EU vào Việt Nam tăng trở lại.

 

Đây là thông tin mà Đại sứ Franz Jessen, Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam, đưa ra trong cuộc trả lời phỏng vấn của hãng tin tài chính Bloomberg. Theo ông Jessen, hôm nay (26/6), Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng sẽ có cuộc gặp với Cao ủy thương mại EU Karrel De Gucht ở Brussels để công bố về cuộc đàm phán.

Việc các công ty từ EU quan tâm trở lại thị trường Việt Nam có thể chặn đà suy giảm của vốn FDI vào Việt Nam suốt từ năm 2008. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI cam kết vào Việt Nam đã giảm 26% trong năm 2011 so với năm 2010. Trong 5 tháng đầu năm nay, lượng vốn FDI cam kết giảm thêm 32% do ảnh hưởng của suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu và các nỗ lực chống lạm phát của Việt Nam khiến tăng trưởng đi xuống. Trong quý 1 năm nay, GDP của Việt Nam chỉ tăng 4%, mức thấp nhất kể từ năm 2009.

Ông Jessen cho rằng, Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể sẽ đảo ngược xu hướng giảm của vốn FDI vào Việt Nam, “vì nếu tiến trình đàm phán diễn ra nhanh chóng, các công ty sẽ điều chỉnh theo”.

EU là nhà đầu tư lớn thứ tư vào Việt Nam trong năm 2011, với vốn FDI cam kết đạt 1,77 tỷ USD, chiếm hơn 12% tổng vốn cam kết vào Việt Nam năm ngoái - theo số liệu từ EU. Nhà sản xuất xe máy Piaggio từ Italy và hãng điện thoại Nokia của Phần Lan là hai trong số những công ty đầu tư sản xuất tại Việt Nam.

Theo ông Jessen, các điều kiện đầu tư ở Việt Nam cũng sẽ là một chủ đề trong các cuộc đàm phán FTA giữa hai bên. Trong đó, minh bạch môi trường kinh doanh là một yếu tố có thể ảnh hưởng tới quyết định của các công ty.

“Các công ty châu Âu hoạt động dưới các quy định ngặt nghèo về chống tham nhũng và đi theo những quy tắc rất chặt chẽ. Điều tôi muốn nói ở đây là nếu chúng ta muốn kích thích đầu tư vào Việt Nam, một trong những việc phải làm là đảm bảo một môi trường kinh doanh minh bạch và lành mạnh”, ông Jessen phát biểu.

Bên cạnh những vấn đề thương mại tự do mang tính “tiêu chuẩn” như giảm hàng rào thuế quan, thuận lợi hóa thương mại và thủ tục hải quan sẽ nằm trong số những lĩnh vực “thú vị” được đem ra đàm phán trong cuộc đàm phán FTA giữa EU và Việt Nam, ông Jessen cho hay. Ngoài ra, bảo vệ quyền sở hữu cũng là một “vấn đề lớn” của cuộc đàm phán.

Ông Jessen cũng cho biết, EU có kế hoạch mở trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp tại Hà Nội và Tp.HCM vào năm nay và đầu năm tới để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, EU cũng sẽ mở các trung tâm tương tự ở Indonesia, MalaysiaPhilippines.

Việt Nam là thành viên thứ ba của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tham gia đàm phán FTA với EU, sau SingaporeMalaysia.

Theo An Huy
VnEconomy

 

 


FDI giảm sút, nhìn từ những lĩnh vực “đặc thù”

Ngày đăng : 26/06/2012 - 2:01 PM

 

 

Dòng vốn FDI trên toàn cầu đang giảm sút đáng kể, khiến cho các nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách tiếp nhận nếu không muốn “tụt hậu”, nhất là trong những lĩnh vực đặc thù.

 

Nhiều năm nay, Việt Nam vẫn liên tục kêu gọi đầu tư nước ngoài vào ngành điện, một ngành được coi là “đặc thù” của Việt Nam. Kết quả đạt được không nhiều, dẫu cho trong năm 2011, đã có hai dự án quan trọng được cấp phép là nhiệt điện Mông Dương II và nhiệt điện Hải Dương.

Những hồ hởi từ hai dự án này rõ ràng không thể che đậy một thực tế là đầu tư nước ngoài vào ngành điện rất hạn chế, mặc dù theo Tổng sơ đồ phát triển điện quốc gia 7 cho giai đoạn 2011-2020, tổng vốn đầu tư cần thiết cho giai đoạn 2011-2030 ước tính khoảng 2.359 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 123,8 tỷ USD, một con số nằm ngoài khả năng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Các nhà đầu tư trong nước khác thì không phải ai cũng có tiềm năng. “Máu mặt” nhất là Petro Việt Nam thì gần đây đã nhận được chỉ đạo từ Chính phủ về việc “tập trung vào nhiệm vụ chính”, hơn nữa bản thân tập đoàn này cũng không sẵn vốn trong bối cảnh hiện nay.

Vấn đề là, ngay cả khi Việt Nam có muốn kêu gọi đầu tư nước ngoài, thì tình hình kinh tế ở châu Âu và những khó khăn khác của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng châu Âu, sẽ giảm quy mô tín dụng dành cho các dự án ở châu Á.

“Theo một trong những ngân hàng tài trợ dự án hàng đầu cho biết, nhiều khả năng mỗi năm sẽ có thể chỉ có một một dự án điện được họ cấp vốn ở châu Á”, ông Tony Foster, một chuyên gia nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực điện ở Việt Nam, nói.

Chuyên gia này cho rằng, Việt Nam muốn là nước có được dự án này thì phải có những đề án hấp dẫn về mặt thương mại với nhà đầu tư, nhà tài trợ nước ngoài. Để đạt mục tiêu đó, các dự án sẽ phải đảm bảo mức lợi nhuận chấp nhận được và sự ổn định pháp lý cho các nhà đầu tư, tài trợ nước ngoài. 

Hơn bao giờ hết, chi phí đầu tư là thứ đang được đặt lên bàn cân. Hiện tại, hình thức BOT đang được các nhà đầu tư vào lĩnh vực điện “yêu thích”, và mặc dù theo quy chế về dự án BOT, các doanh nghiệp BOT không phải trả tiền thuê đất. Tuy nhiên, dự án BOT vẫn phải chịu một số loại chi phí đáng kể liên quan đến đất đai, trong đó “nặng” nhất là chi phí giải phóng mặt bằng.

Dự án nhiệt điện Mông Dương II của Tập đoàn AES là một trường hợp khá đặc biệt khi được cấp đất đã giải phóng mặt bằng. Nhưng không phải ai cũng được may mắn như Mông Dương II. Thông thường, những dự án điện khác phải tự chịu chi phí giải phóng mặt bằng và chi phí này có thể lên tới trên 50 triệu USD.

Một vấn đề khác là đa số các nhà máy nhiệt điện than có trong danh sách Tổng sơ đồ điện 7 được dự kiến sẽ sử dụng than nhập khẩu. Do lệ thuộc vào than nhập khẩu nền các nhà máy điện tương lai của Việt Nam sẽ chịu sự ảnh hưởng của biến động giá than.

Trong bối cảnh đang có tin đồn về việc chính phủ Inđonesia hạn chế xuất khẩu than, việc vận hành nhiều nhà máy trong số 45 nhà máy điện ở danh sách trên sẽ trở nên không kinh tế nếu giá than trên thị trường quốc tế tăng mạnh.

Trong khi đó, với lĩnh vực công nghệ cao, các nhà đầu tư cũng đang bày tỏ những lo lắng nhất định. Chẳng hạn dự án của First Solar tại Thành phố Hồ Chí Minh buộc phải bỏ dở vì giá trên toàn cầu của loại tấm thu điện năng lượng mặt trời mà dự án dự kiến sản xuất giảm từ 90 USD xuống còn 30 USD một tấm trong vòng vài tháng, do trợ cấp từ các nước xuất khẩu. 

Theo lý giải của nhà đầu tư, điều này đã làm mất đi tính khả thi của dự án và dự án đã bị bỏ dở. 

First Solar hẳn cũng đã rất tiếc nuối vì trên thực tế họ cũng đã bỏ ra khá nhiều công sức và tiền bạc để thúc đẩy dự án quan trọng này, và việc phải dừng dự án cũng là chuyện chẳng đặng đừng.

Không tuyên bố rõ ràng như First Solar, song sự chần chừ của tập đoàn Foxconn, một trong những “niềm hy vọng” của lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam trong việc triển khai các dự án mới cũng được giới đầu tư đặc biệt chú ý.

5 năm trước, khi bắt đầu vào Việt Nam, Foxconn tuyên bố đầu tư ít nhất 5 tỷ USD vào một chuỗi dự án công nghệ cao và ngay sau tuyên bố đó là hàng loạt thỏa thuận được ký kết với các tỉnh thành.

Nhưng cho đến nay, ngoài nhà máy tại Bắc Ninh đang hoạt động, thì tại các tỉnh thành khác như Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Bình Định… các hoạt động của Foxconn vẫn cầm chừng và quy mô các dự án đã được cắt giảm đáng kể. Dường như sự thay đổi của thị trường các sản phẩm công nghệ đã và đang khiến nhà đầu tư này “nghĩ lại”.

Thời gian gần đây, Chính phủ liên tục nhận được các đề xuất “vượt khung” từ các nhà đầu tư công nghệ cao, như trường hợp Samsung và Nokia mới đây. Tuy nhiên, làm gì để hài hòa giữa vấn đề thu hút đầu tư và lợi ích thực tế mà Việt Nam nhận được vẫn đang là bài toán khó cho các cấp quản lý.

Theo Hoài Ngân
VnEconomy

 

 


JPMorgan Chase “ngạc nhiên” với lạm phát của Việt Nam

Ngày đăng : 25/06/2012 - 6:02 PM

 

Ngân hàng JPMorgan Chase của Mỹ cho rằng, những con số thống kê lạm phát mới nhất của Việt Nam là “đáng ngạc nhiên theo hướng tích cực”.

Trong một báo cáo vừa ra, ngân hàng này cho biết, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam trong tháng 6 vừa qua là thấp hơn dự kiến. Cụ thể, so với cùng kỳ năm trước, CPI của Việt Nam tăng 6,9%, so với mức dự báo 7,1% của JPMorgan Chase và mức 7,5% của giới chuyên gia nói chung.

Theo dự báo của JPMorgan Chase, với tốc độ tăng trưởng GDP đi vào ổn định thì các áp lực lạm phát cũng có thể sớm quay đầu tăng nhẹ sau một thời gian suy giảm. Tuy nhiên, ngân hàng này cho rằng, trong trường hợp giá dầu thế giới tiếp tục giảm, thì tốc độ lạm phát của Việt Nam hoàn toàn có thể giảm thêm.

JPMorgan Chase dự báo, lạm phát của Việt Nam sẽ giảm về mức 4,2% so với cùng kỳ năm trước vào tháng 10 tới đây, rồi dần tăng trở lại. Tính cả năm, JPMorgan Chase cho rằng, lạm phát của Việt Nam sẽ ở mức 8,1%, so với mức 18,1% của năm 2011.

Chuyên gia của JPMorgan Chase cho rằng, lạm phát giảm tốc sẽ đem lại hai hiệu ứng tích cực.

Thứ nhất là chính sách tiền tệ có thể được nới lỏng thêm, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế đang yếu. Do lạm phát giảm nhanh, lãi suất thực tế ở Việt Nam đang ở mức cao nhất trong mấy năm, bất chấp lãi suất cơ bản giảm 400 điểm phần trăm trong vài tháng qua. Theo số liệu mà báo cáo đưa ra, lãi suất repo (trên thị trường mở) thực tế hiện đang thực dương 2,9%, thay vì mức âm 7,3% vào tháng 8 năm ngoái, trong khi lãi suất repo hiện là 10% so với mức 14% vào tháng 8 năm ngoái.

Thứ hai, lạm phát giảm tốc sẽ cải thiện cân bằng kinh tế vĩ mô và ổn định cán cân thanh toán của Việt Nam. Áp lực đối với cán cân thanh toán của Việt Nam thường xuất phát từ các dòng vốn ngắn hạn vốn dĩ rất nhạy cạm với lạm phát vì người dân dễ dàng dịch chuyển vốn giữa USD, VND và vàng. Nếu lạm phát thấp, các dòng vốn sẽ tiếp tục chảy vào các tài sản VND. Theo các tuyên bố chính thức, thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm nay đã lần đầu tiên tăng sau nhiều năm. JPMorgan Chase dự báo mức dự trữ này còn tiếp tục tăng thêm.

Theo An Huy 
VnEconomy


 

Tin mới cập nhật