Hoạt động ngân hàng 2011: VND đã đi đâu?

Ngày đăng : 30/12/2011 - 6:13 PM

Một năm có quá nhiều sự kiện quan trọng, có nhiều đổi thay và xáo trộn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Nhiều người trong ngành vẫn cho rằng 2011 còn khó khăn hơn cả năm khủng hoảng 2008.

 

 

VnEconomy cùng bạn đọc điểm lại 10 sự kiện nổi bật nhất trong năm 2011 này, trong đó "VND đã đi đâu?" là một câu hỏi đặt ra.

1. Tín dụng, cung tiền thấp nhất hơn 15 năm qua

Trên biểu đồ dữ liệu tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán của hơn 15 năm trở lại đây, kết quả của năm 2011 tạo một điểm rơi rõ rệt, thấp hơn cả hai điểm trũng của năm 1998 và 2002. Bản thân năm 2011, kết quả của nó cũng thấp hơn hẳn các chỉ tiêu đề ra.

Đầu năm, triển khai Nghị quyết số 11 của Chính phủ, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay giới hạn dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15% - 16%. Thế nhưng, kết quả ước tính lần lượt chỉ là 12% và 10%.

Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh kết quả đó ở giá trị kiềm chế lạm phát, ở khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cải thiện. Tuy nhiên, mặt trái của hai tỷ lệ quá thấp đó đến nay vẫn chưa được phân tích một cách rõ ràng và cụ thể. Còn trên thực tế, đó là hai trở ngại lớn đối với nỗ lực giảm lãi suất, với khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp.

2. Chuyển giao hai nhiệm kỳ Thống đốc

Năm 2011 khá đặc biệt khi chứng kiến sự chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Thống đốc. Tính chất đặc biệt của nó có ở nhiều thay đổi trong quản lý và điều hành chính sách tiền tệ.

Ngày 3/8, hệ thống chính thức đón nhận người đứng đầu mới là ông Nguyễn Văn Bình. Ngay trong những ngày đầu, dưới sự điều hành của tân Thống đốc, thị trường ghi nhận những thay đổi cơ bản. Đó là siết lại trật tự hệ thống về lãi suất và tỷ giá, hướng đi mới trong bình ổn thị trường vàng và sự vào cuộc giảm lãi suất cho vay; chính thức triển khai lộ trình tái cơ cấu hệ thống.

Thay đổi cụ thể hơn là việc bỏ những rào cản quan trọng trong Thông tư 13 và 19 có hiệu lực trong năm 2010; mở lại cơ chế cho vàng tài khoản; “giải phóng” cho 4 nhóm đối tượng thoát rổ tín dụng phi sản xuất; khởi động cơ chế phân bổ chỉ tiêu tín dụng thay vì cào bằng…

3. Căng thẳng trần lãi suất

Không mới, trần lãi suất huy động VND 14%/năm là câu chuyện của năm 2010 chuyển giao. Nhưng đến năm 2011 nó diễn biến phức tạp và căng thẳng. Từ tháng 8 trở về trước, hiện tượng phá trần trở nên phổ biến gây méo mó, bất ổn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Từ tháng 8 trở về sau, trần lãi suất được làm nghiêm, gắn với những quyết định xử phạt xôn xao trên thị trường, trong đó có cả dư luận về cái gọi là ngân hàng “cài bẫy” ngân hàng.

Thế nhưng, thời điểm cuối năm, chính thức và bên lề, thông tin ngân hàng vượt trần lãi suất lại rộ lên và một lần nữa đặt ra yêu cầu vào cuộc, giám sát gắt gao từ Ngân hàng Nhà nước.

Là một giải pháp hành chính mang tính tình thế, cho đến nay trần lãi suất vẫn chưa thể được điều chỉnh hay gỡ bỏ, dù khi tiếp nhận vị trí đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã đưa ra thông điệp sẽ gỡ bỏ.

4. Nước rút hạ tỷ trọng tín dụng phi sản xuất

Ngày 1/3/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN, trong đó quy định đến 30/6/2011 tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa phải là 22% và đến 31/12/2011 tối đa là 16%.

Chỉ thị này lập tức tác động mạnh đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, thường trực và căng thẳng cho đến hết năm. Đó là một cuộc đua nước rút hạ tỷ trọng tín dụng phi sản xuất, mà phản ứng là sự “đóng băng” tín dụng tiêu dùng tại nhiều ngân hàng, sự chao đảo của thị trường bất động sản và sự suy giảm kéo dài của thị trường chứng khoán…

Một tháng trước hạn 31/12 với rào cản 16% nói trên, Ngân hàng Nhà nước có động thái “nới lỏng” khi mở cơ chế cho loại trừ 4 nhóm đối tượng thoát nhóm tính dư nợ phi sản xuất.

5. Tỷ giá và “cam kết không quá 1%”

Ngày 7/9/2011, tại hội nghị toàn ngành, Ngân hàng Nhà nước đưa ra thông điệp: dư sức để can thiệp những biến động trên thị trường ngoại hối, và nếu điều chỉnh tỷ giá thì từ đó đến cuối năm không quá 1%. Đến nay, cam kết này được giữ vững, tỷ giá USD/VND có sự ổn định tương đối trong khoảng nửa cuối năm 2011. Những cơn sốt tỷ giá vào cuối năm và ám ảnh của “con ngáo ộp” tín dụng ngoại tệ đến thời điểm này có thể nói đã được loại trừ.

Có một điểm trong thông điệp ngày 7/9 ít được dư luận chú ý là từ “dư sức” mà Ngân hàng Nhà nước dùng đến. Phía sau từ “dư sức”là sự gia tăng rất nhanh và mạnh của dự trữ ngoại tệ trước đó, kết quả của loạt giải pháp triển khai quyết liệt từ đầu năm, từ áp trần lãi suất huy động USD, kết hối và mở rộng kết hối, đến những chuyển biến vĩ mô với trạng thái thặng dư khá lớn của cán cân tổng thể…

6. Tái cấu trúc và sự cụ thể hóa đầu tiên

Ngày 6/12, Ngân hàng Nhà nước chính thức công bố kế hoạch hợp nhất ba ngân hàng thương mại là SCB, Ficombank và TinNghiaBank. Lần đầu tiên trong lịch sử thị trường đón nhận vụ hợp nhất diễn ra một cách nhanh chóng như vậy. Đây cũng là sự cụ thể hóa đầu tiên trong lộ trình thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng mà Trung ương Đảng đề ra, cũng như Ngân hàng Nhà nước đã định hình triển khai.

Về hình thức, sự kiện này cho thấy nhà điều hành đang quyết tâm và nhanh gọn trong việc củng cố lại hệ thống. Còn thử thách và kết quả của việc hợp nhất vẫn ở phía trước. Ngày 23/12, ngân hàng hợp nhất đã tiến hành đại hội cổ đông; ngay sau đó Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản chính thức chấp thuận về mặt pháp lý việc thành lập và hoạt động của ngân hàng mới.

Liên quan đến sự kiện này, tái cấu trúc và sự lo ngại “hiệu ứng Tăng Sâm” là dòng chảy nổi bật trong hoạt động ngân hàng 2011. Phía sau đó là những đồn đoán, là sự dịch chuyển của dòng tiền gửi, gắn với cơ chế trần lãi suất, gây những xáo trộn nhất định trên thị trường.

7. Bất ổn thị trường liên ngân hàng

Tháng 10/2011, thị trường liên ngân hàng bước vào những bất ổn khi lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện hiện tượng áp cơ chế bảo đảm, thế chấp trong giao dịch giữa các thành viên. Cơ chế này lập tức tạo một không khí ngột ngạt và ảnh hưởng tới sự điều hòa các dòng vốn trong hệ thống, căng thẳng thanh khoản tại một số thành viên. Quan trọng hơn, giá trị lớn nhất của thị trường này là niềm đã bị đánh mất khi các thành viên nghi ngờ lẫn nhau, khi phát sinh những món nợ đồng lần…

Đi cùng với cơ chế đó, lãi suất huy động vàng và ngoại tệ “lạ” biến động và tăng nhanh, khi một số thành viên cần có tài sản để thế chấp gọi vốn trên thị trường liên ngân hàng. Đáng chú ý là cho đến nay vẫn chưa có một sự can thiệp triệt để nào từ Ngân hàng Nhà nước được công bố, để trả lại môi trường vốn có cho thị trường này, cũng như vai trò của nó trong điều hòa các dòng vốn.

8. Xuất hiện “yếu tố nhóm” trong hệ thống

Tại phiên chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trước Quốc hội ngày 24/11, có một câu hỏi được đặt ra: liệu có “lợi ích nhóm” trong những điều chỉnh chính sách tiền tệ gần đây? Câu hỏi này xuất phát từ “yếu tố nhóm” định hình trong chủ trương của Ngân hàng Nhà nước.

Cụ thể, ngay sau khi tiếp nhận vị trí lãnh đạo cao nhất ngành, bước đi đầu tiên của Thống đốc Nguyễn Văn Bình là thành lập nhóm 12 ngân hàng lớn với tên gọi được nhắc đến là “G12”, gồm những thành viên lớn và mạnh trong hệ thống. Sự kiện này lập tức tạo sự phân biệt trong hệ thống, cả trong tâm lý khách hàng và người gửi tiền. Có ngân hàng trong nhóm đã quảng bá rộng rãi thông điệp “G12” như một “chứng chỉ” trong bối cảnh tâm lý người dân ít nhiều xáo trộn từ thông tin tái cấu trúc hệ thống…

Ngoài ra, năm 2011 cũng đón nhận sự trở lại của vàng tài khoản, mở riêng cho 5 ngân hàng thương mại lớn trong giải pháp bình ổn thị trường vàng mà Ngân hàng Nhà nước triển khai. Nhóm nay cũng được gắn với tên gọi “G5” trong các thông tin bình luận liên quan.

9. Thử thách lớn trong bình ổn thị trường vàng

Một năm thị trường vàng có quá nhiều biến động, kịch tính và cả những bất cập. Lần đầu tiên trong lịch sử giá vàng trong nước có thời điểm vượt trên giá thế giới tới 4 triệu đồng/lượng và duy trì trạng thái vượt trội đó kéo dài, thách thức các nỗ lực rút ngắn của Ngân hàng Nhà nước.

Như ở sự kiện trên, việc mở lại vàng tài khoản ở nước ngoài cho 5 ngân hàng lớn, phối hợp cùng SJC là giải pháp trọng tâm mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra. Dù “liều thuốc” cấp hạn mức nhập vàng đã không còn được dùng đến, áp lực đối với tỷ giá cũng được xử lý đáng kể, nhưng chênh lệch giữa giá vàng trong nước với thế giới vẫn là bài toán chuyển giao cho năm 2012.

Đáng chú ý là trong năm 2011, dự thảo nghị định quản lý kinh doanh vàng trở thành một câu chuyện dài, gắn với nhiều biến động và phản ứng trên thị trường. Liên quan, ngày 25/11, trả lời trước Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Văn Bình chính thức tuyên bố vàng SJC trở thành vàng của Ngân hàng Nhà nước, trong lộ trình tăng cương quản lý thị trường rất nhạy cảm này.
 
10. Câu hỏi: VND đã đi đâu?

Cuối cùng, điểm nổi bật mà VnEconomy đặt ra để điểm lại hoạt động của hệ thống ngân hàng năm 2011 là câu hỏi: VND đã đi đâu?

Bất động sản ồ ạt giảm giá, giá cổ phiếu trên sàn chứng khoán được cho là rẻ rúng, giới hạn tăng trưởng tín dụng tại nhiều nhà băng đã hết năm vẫn còn khá lớn… Nhưng vấn đề là tiền và tiền mặt. Trong khi đó, liên tiếp các tháng 9, 10 huy động vốn của hệ thống ngân hàng sụt giảm; riêng tháng 11, 12 và báo cáo chung cả năm đến nay vẫn chưa thấy dữ liệu được công bố.

Trả lời câu hỏi trên là một vấn đề lớn. Yếu tố tham khảo là: tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng năm nay tạo đáy như vậy; nhập siêu vẫn lớn với 9,5 tỷ USD mà tính chuyển đổi của VND rất hạn chế để có thể chảy trực tiếp sang nước bạn; lượng vàng nhập khẩu qua các đợt bình ổn năm 2011 cũng ngốn một lượng tiền lớn đang tích tụ và trú ẩn trong dân cư thay vì đi vào sản xuất kinh doanh…

Và cùng với câu hỏi trên, một câu hỏi liên đới là “Bao giờ lãi suất VND mới thực sự giảm?” - câu hỏi được chuyển tiếp cho năm 2012, dù trong năm 2011 chủ trương giảm lãi suất cho vay xuống 17 - 19% đã là một câu chuyện dài.

 

Theo VnEconomy.vn

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Nợ xấu tại các ngân hàng Trung Quốc có thể hơn 2 nghìn tỷ USD

Ngày đăng : 29/12/2011 - 10:27 AM
Tháng 3/2011, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc tính con số này ở mức 500 tỷ USD. Fitch cho rằng nợ xấu ở mức trên 2 nghìn tỷ USD.
 
Người đứng đầu các quỹ ngoại và nội tại Trung Quốc cho rằng tình trạng nợ xấu sẽ trở nên tồi tệ hơn tại Trung Quốc sau 5 năm các ngân hàng đã cho vay quá ồ ạt và đang ôm 1 đống nợ xấu.
 
Giám đốc điều hành tại quỹ Clearwater Capital và quỹ Shoreline Capital cho rằng các ngân hàng cho vay Trung Quốc nên công bố cụ thể số nợ xấu. Trước đây, chính phủ Trung Quốc khuyến khích cho vay mạnh tay sau thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu để vực dậy nền kinh tế.
 
Dù không ai có thể tính toán được nguồn cung tín dụng thực tế, Trung Quốc đã điều chỉnh lại số liệu năm 2009 để cho thấy con số sát thực tế hơn. Morgan Stanley tính toán ngân hàng Trung Quốc cho vay khoảng 4,1 nghìn tỷ USD trong khoảng thời gian 2 năm tính từ cuối năm 2008. Tổng số tiền đã cho vay ra ước khoảng 5,7 nghìn tỷ USD khi tính đến cả dòng tín dụng không chính thống.
 
Tình trạng tín dụng bùng nổ tín dụng đã kết thúc vào đầu năm 2011 khi chính phủ Trung Quốc nâng lãi suất để kiềm chế lạm phát và thị trường bất động sản tăng trưởng nóng. Tuy nhiên Trung Quốc mới đây đã phải nới lỏng chính sách bởi lo sợ tăng trưởng kinh tế đang chững lại và rằng ngành sản xuất Trung Quốc đang chịu chấn động mạnh khi số lượng đơn đặt hàng từ nước ngoài giảm và lạm phát hạ nhiệt.
 
Các chuyên gia đưa ra số liệu tính toán khác nhau về nợ xấu tại Trung Quốc. Tháng 3/2011, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc tính con số này ở mức 500 tỷ USD. Fitch cho rằng nợ xấu ở mức trên 2 nghìn tỷ USD. Nhiều chuyên gia lo lắng về nợ xấu trong lĩnh vực sản xuất, cho đến nay các chuyên gia không chú ý nhiều đến nợ xấu trong lĩnh vực này bởi quan tâm nhiều hơn đến nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản.
 
Ông Rob Petty, người sáng lập ra Clearwater Capital, chỉ ra: “Hiện nay riêng nợ xấu trong nhóm các công ty nhà nước lên tới khoảng từ 200 đến 300 tỷ USD.”
 
Theo Minh Ngọc
TTVN

T.S Cao Sĩ Kiêm: Thả nổi lãi suất cho vay là hại dân!

Ngày đăng : 28/12/2011 - 4:48 PM

Theo ông Kiêm thì việc áp trần lãi suất huy động suốt thời gian qua đã không còn phù hợp. Bây giờ nên khống chế lãi suất cho vay.

 


Mặc dù được kiểm soát rốt ráo, sắp bước sang năm 2012, vấn đề lãi suất ngân hàng vẫn còn nhiều việc lấn cấn đối với cơ quan quản lý. Dân Việt đã trao đổi với nguyên Thống đốc NHNN Cao Sĩ Kiêm.

Bên lề hội nghị giữa Chính phủ với các địa phương, Thống đốc NHNN đã bày tỏ lo ngại xung quanh vấn đề lãi suất trên cơ sở thực tế của năm 2011 vừa qua. Ông có chung cảm nhận đó hay không?

Vấn đề lãi suất là vấn đề lớn nhất hiện nay và đang có những mâu thuẫn lớn. Hiện lãi suất so với nền kinh tế, so với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là không chịu nổi. Nếu như vẫn kéo dài thêm 5 - 6 tháng nữa, hàng loạt doanh nghiệp sẽ phá sản, đình trệ. Nguyện vọng của doanh nghiệp là phải giảm lãi suất thì mới chịu nổi. Tuy nhiên, vấn đề giảm bao nhiêu, giảm ở mức nào vẫn là khó.

Tuy nhiên, Thống đốc cũng đã đưa ra thông điệp cuối năm tới lãi suất huy động sẽ được đưa về mức 10%. Ông bình luận như thế nào về thông điệp này?

Tôi cho rằng đây là mục tiêu khó. Nhưng khó cũng phải làm, cũng phải xử lý vì cái đích của chúng ta là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Muốn thế trước hết chúng ta phải ổn định sản xuất, cứu sản xuất thì lãi suất phải thấp, chứ nếu như hiện nay thì không cứu được.

Theo ông cần phải có những điều kiện gì để có thể giảm lãi suất huy động về mức đó mà không gây xáo trộn trong hệ thống, để NH không gặp khó khăn thanh khoản?

Nếu chúng ta làm tốt thì không khó khăn. Chúng ta sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, cho các NH cạnh tranh lành mạnh. Vừa qua, chúng ta để hệ thống NH quá đông, hàng trăm NH xâu xé nhau, nâng giá lên, rồi cộng tất cả chi phí của nó vào cho người dân phải chịu. Năm tới sẽ phải làm kiên quyết, phải làm mạnh mẽ. Đồng thời kết hợp với kiểm soát chặt chẽ tiền tệ, giảm bội chi ngân sách, giảm nhập siêu, mở rộng thị trường nội địa, tạo nguồn hàng hóa dồi dào…

Nhiều ý kiến chuyên gia trong lĩnh vực NH cho rằng nên sớm bỏ trần lãi suất huy động ?

Tôi cho rằng nên bỏ sớm bởi nó chỉ phù hợp với giai đoạn trước. Nay nếu chúng ta để tình trạng này tồn tại lâu sẽ gây ra hậu quả khó lường. Tôi cho rằng, việc bây giờ là phải khống chế lãi suất cho vay, nếu để như hiện nay sẽ hại dân và doanh nghiệp.

Theo Phương Hà
Dân việt
 


Sacombank khó lòng thoát hiểm

Ngày đăng : 28/12/2011 - 4:45 PM

Hoạt động cốt lõi của một ngân hàng thương mại là cho vay, nhưng tính đến ngày 30.9.2011 Sacombank đã có khoảng 25.000 tỉ đồng đầu tư chứng khoán, chiếm 16% tổng tài sản.

 


Sức khỏe đang suy yếu, Sacombank khó lòng cố thủ nếu xuất hiện những ý đồ thâu tóm.

Giữa năm 2011, thị trường nổi lên tin đồn Sacombank có nguy cơ bị thâu tóm. Câu chuyện càng đáng ngờ hơn khi Sacombank liên tục mua gom cổ phiếu STB như đang cố thủ. Tuy sự việc chưa ngã ngũ, nhưng nếu có một cuộc chuyển giao quyền lực như lời đồn đại thì khả năng Sacombank chiếm thế thượng phong là rất thấp.

Sức đề kháng giảm


Dù nói là có lãi, nhưng tình hình kinh doanh của Sacombank có rất nhiều vấn đề. Hoạt động cốt lõi của một ngân hàng thương mại là cho vay, nhưng tính đến ngày 30.9.2011, theo báo cáo hợp nhất, Sacombank đã có khoảng 25.000 tỉ đồng đầu tư chứng khoán (trái phiếu và cổ phiếu), chiếm 16% tổng tài sản.
 
Công ty Chứng khoán Sacombank - SBS cũng lỗ lũy kế 9 tháng gần 258 tỉ đồng.

Không chỉ có chứng khoán, mảng kinh doanh bất động sản của Sacombank cũng lao đao theo thị trường. Tính lũy kế từ đầu năm đến hết quý III, lợi nhuận của Công ty Địa ốc Sài Gòn Thương Tín - Sacomreal là khoảng 82 tỉ, giảm đến 83,67% so với cùng kỳ năm ngoái. Đối với mảng sản xuất và kinh doanh vàng miếng, sau khi có quy định chỉ SJC mới được sản xuất vàng miếng, Sacombank không còn được phép sản xuất vàng mang thương hiệu SBJ nữa. Vì vậy, trước mắt, hệ thống máy móc sản xuất vàng miếng trị giá hơn 30 tỉ đồng của Sacombank sẽ chưa được sử dụng.

Điều đáng nói là tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của Sacombank đã có từ trước đó. Nếu xét về quy mô vốn (10.000 tỉ đồng) và phạm vi hoạt động thì ACB là đối thủ trực tiếp của Sacombank. Khác với Sacombank, ACB luôn mang lại lợi nhuận cao hơn cho nhà đầu tư. Năm 2009, tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của ACB là 21,78%, trong khi Sacombank chỉ 15,8%. Con số tương ứng cho năm 2010 là ACB 20,5%, Sacombank 16,74%. Năm 2011, ROE của ACB vẫn cao hơn Sacombank 6 điểm phần trăm.

Với tình hình kinh doanh như vậy, cộng với sự đi xuống chung của cổ phiếu ngân hàng, giá cổ phiếu của Sacombank giảm là điều dễ hiểu. Tháng 8 năm nay, Dragon Capital chính thức thoái 6,66% vốn tại Sacombank, bán ra gần 61 triệu cổ phiếu STB sau 10 năm nắm giữ. Trong khi đó, từ tháng 4.2010 đến tháng 6.2011, giá cổ phiếu STB của Sacombank được giao dịch quanh mức dưới giá trị sổ sách là 14.000 đồng. Với mức giá này, STB trở nên quá dễ mua đối với những nhà đầu tư có nhiều tiền.

Đê mỏng không ngăn được lũ


Khi nhận ra cổ phiếu STB được gom mua từ năm 2010, Sacombank đã có động thái phòng thủ. Tháng 11 năm nay, Sacombank đăng ký mua vào 100 triệu cổ phiếu STB. Liên tiếp các công ty Thành Thành Công, Đặng Huỳnh, Đường Ninh Hòa, Bourbon Tây Ninh cũng đăng ký mua vào dồn dập cổ phiếu này. Chủ tịch hội đồng quản trị các công ty này là bà Huỳnh Bích Ngọc, vợ ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Sacombank.

Trước nguy cơ bị thâu tóm, một vài thành viên hội đồng quản trị của Sacombank cũng tìm cách tăng lượng cổ phần nắm giữ của mình. Một trong số đó là vụ mua vào hơn 30 triệu cổ phiếu STB của ông Chang Hen Jui, chồng bà Huỳnh Quế Hà, Phó Chủ tịch thứ nhất Sacombank.

Mục đích của việc kinh doanh, đầu tư là tạo ra lợi nhuận. Khi Sacombank làm ăn sa sút, điều đầu tiên mà một nhà đầu tư bình thường nghĩ đến là để tiền của họ nơi khác sinh lợi nhiều hơn. Vì thế mới có chuyện cổ phiếu STB được bán ra với khối lượng lớn. Nội lực của Sacombank ít nhiều đã bị hao mòn. Một nhóm nhỏ nhân sự chủ chốt dù cố gắng mấy cũng khó bắt kịp lực lượng đối lập, vốn đã kiên trì mua cổ phiếu STB từ năm ngoái.

Giữa lúc dư luận cho rằng Sacombank đang đồng tâm hiệp lực chống thế lực thâu tóm thì ngày 19.12, Sacomreal tuyên bố rút toàn bộ vốn đang nắm giữ tại Sacombank với hơn 22 triệu cổ phiếu. Sau Công ty Chứng khoán SBS, Sacomreal là công ty con thứ hai thoái vốn tại ngân hàng mẹ Sacombank. Tại sao công ty con giờ đây không còn muốn nắm giữ cổ phiếu của công ty mẹ? Ông Đặng Hồng Anh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Sacomreal, từ chối trả lời câu hỏi của NCĐT về vấn đề này. Trước đó, vào tháng 7, bà Bích Ngọc (vợ ông thành) và bà Ức My (con ông Thành) đã bán cổ phiếu STB do mình nắm giữ. Lý giải cho sự việc trên, ông Thành cho biết số cổ phiếu này được bán cho Thành Thành Công, chuyển từ sở hữu cá nhân sang pháp nhân để quản lý tốt hơn. Vậy trong trường hợp này, cổ phiếu STB đang được Công ty Sacomreal do con trai ông làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị, sở hữu với tư cách pháp nhân, tại sao lại được bán đi?

Ngay sau sự việc Sacomreal thoái vốn, thị trường lại rộ lên thông tin Credit Suisse mua cổ phần của Ngân hàng Sacombank. Sự tham gia của Credit Suisse vào cơ cấu cổ đông của Sacombank vào lúc này là không bình thường. Hiện tại cổ đông nước ngoài đã nắm giữ 26% cổ phần Sacombank, nghĩa là chỉ còn 4% tỉ lệ vốn góp dành cho cổ đông nước ngoài, trong khi Sacombank có ý định bán cho Credit Suisse 15% cổ phần. Sacombank sẽ phải cấu trúc lại cơ cấu cổ đông mới có chỗ cho Credit Suisse. Hiện nay, tin đồn này vẫn chưa được xác thực, khi Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đặng Văn Thành phủ nhận, còn Tổng Giám đốc Trần Xuân Huy lại trả lời Đài BBC rằng: việc bán cổ phần “có thể được tiến hành dần dần cho đến khi cổ phần được bán ra tới tối đa mà cả hai bên đồng ý”.

Điều này cũng dấy lên những đồn đoán về việc Sacombank đang khủng hoảng về cơ cấu, và Credit Suisse, trước đây đại diện các chủ nợ của Vinashin, là ngân hàng trung gian dàn xếp quyền lợi của các bên. Hơn 1 tháng trở lại đây cũng có thông tin ACB đang tăng tỉ lệ sở hữu cổ phần Sacombank và hiện nay đã nắm giữ 60%. Phóng viên NCĐT đã liên hệ với ông Đỗ Minh Toàn, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB và được trả lời: “Đây là tin đồn thất thiệt của một số cá nhân nhằm đẩy giá cổ phiếu lên. Về phía ACB, chúng tôi đã đóng danh mục 2 năm nay và nếu có đầu tư chúng tôi cũng không đầu tư cổ phiếu ngân hàng.”

Ngành ngân hàng lúc này cần một vài tên tuổi đủ mạnh để vượt qua thời kỳ khó khăn. Đó là chưa kể đến tham vọng phát triển những ngân hàng mang tầm khu vực. Vì vậy, sáp nhập và hợp nhất không chỉ là chuyện của các ngân hàng nhỏ


Theo Quân Phan

NCĐT


Vô tư mua bán ngoại tệ

Ngày đăng : 28/12/2011 - 10:33 AM
Khó mua ngoại tệ từ ngân hàng nên nhiều người có nhu cầu phải tìm đến thị trường tự do. Người dân thường bán USD cho các đầu mối thu mua ngoại tệ ngoài ngân hàng.
 
 
Dù các cơ quan chức năng đã tịch thu và xử phạt nặng một số vụ giao dịch ngoại tệ trái phép nhưng những ngày cuối năm 2011, trên thị trường vẫn diễn ra cảnh vô tư mua bán ngoại tệ.
 
Giao dịch sôi động
 
Ngày 26-12, tại tiệm vàng H.T - bên hông chợ Bến Thành (TPHCM) - luôn có khoảng 5-10 khách hàng thường trực mua bán USD, đô la Úc, đô la Singapore, euro…, không khí giao dịch khá sôi động. Nhân viên và hai máy đếm tiền của tiệm liên tục hoạt động để giao nhận ngoại tệ cho khách hàng. Tại đây, chúng tôi ghi nhận một người nước ngoài đi cùng với một thanh niên người Việt mua 3.500 USD. “Muốn mua 2.000 USD giá bao nhiêu?” - tôi hỏi. “Hai mốt ba hai (tức giá bán ra 21.320 đồng/USD)” - chủ tiệm cho biết.
 
Tương tự, các tiệm vàng ở khu vực chợ Tân Định, Bà Chiểu (TPHCM) cũng vô tư mua bán USD. Còn tại sân bay Tân Sơn Nhất, thấy chúng tôi đang tìm hiểu tỉ giá tại một đại lý thu đổi ngoại tệ, lập tức có 4 phụ nữ tìm đến sẵn sàng thu mua USD, tuy nhiên mức giá thu mua của những người này thấp hơn rất nhiều so với giá của các tiệm vàng.
 
Do không quen biết các đầu mối thu mua ngoại tệ nên anh T.V.N (phường 1, quận Phú Nhuận - TPHCM) phải nhờ bạn bè giới thiệu một chủ tiệm vàng để bán 10.000 USD. Chủ tiệm vàng này cho biết sau khi hai bên chốt giá sẽ có nhân viên của tiệm đến nhà anh N. để giao VNĐ, nhận USD. 
 
Chủ tiệm còn cho biết thêm: Để “né” sự kiểm tra của các cơ quan chức năng, bước đầu, các tiệm vàng thường từ chối giao dịch số lượng lớn đối với khách hàng lạ nhưng sau đó gợi ý với khách hàng để lại địa chỉ, thống nhất giá mua- bán và sẽ đến nhà giao nhận “hàng” vào buổi tối, hoặc chủ tiệm vàng sẽ cùng với bên mua USD đến ngân hàng (NH) – nơi chủ tiệm vàng sẽ rút ra số ngoại tệ đang gửi tiết kiệm - rồi thực hiện giao dịch.
 
Doanh nghiệp mua rồi hợp thức hóa
 
Một số đầu mối ngoại tệ cho biết họ thu gom USD rồi bán lại cho các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa vào những ngày giáp Tết Nguyên đán. Riêng các doanh nghiệp đến hạn trả nợ vay NH cũng thường mua USD từ các tiệm vàng rồi hợp thức hóa bằng cách bán số ngoại tệ đó cho NH, sau đó NH làm thủ tục bán lại cho doanh nghiệp. Khi đó, số ngoại tệ mà doanh nghiệp trả nợ vay NH mới hợp pháp.
 
Thực tế cho thấy cá nhân có nhu cầu chính đáng rất khó mua được ngoại tệ từ NH nên họ thường tìm đến thị trường tự do để mua USD là điều dễ hiểu. Trong khi đó, do người bán USD cho NH có phần thiệt thòi bởi giá thu mua của NH thấp hơn giá thu mua của các tiệm vàng từ 200-300 đồng/USD nên vì lợi ích kinh tế, họ bán USD cho các đầu mối ngoài NH.
 
Theo Thy Thơ 
 
NLĐ

2011, năm "hoàng kim" của trái phiếu kho bạc Mỹ

Ngày đăng : 28/12/2011 - 10:27 AM

Nhu cầu đối với trái phiếu kho bạc Mỹ đã lên tới mức kỷ lục trong năm nay, và đây cũng là một trong những loại tài sản đem lại mức lợi nhuận hấp dẫn nhất cho các nhà đầu tư.

 

Theo tin từ Bloomberg, năm nay, Bộ Tài chính Mỹ đã bán đấu giá thành công số trái phiếu trị giá 2.135 tỷ USD. Trong đó, lượng cầu nhận được cao gấp 3,04 lần lượng cung. Kể từ khi Washington bắt đầu công bố số liệu này vào năm 1992 dưới thời Tổng thống George H. W. Bush, chưa khi nào trái phiếu Mỹ nhận được lực cầu lớn đến vậy.
 
Đặc biệt, trong đợt bán 30 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn 4 tuần vào ngày 20/12 vừa qua, Bộ Tài chính Mỹ nhận được mức cầu cao gấp 9,07 lần nguồn cung, mặc dù chỉ trả lãi suất 0% cho số trái phiếu này.
 
Mặc dù hãng định mức tín nhiệm Standard & Poor’s đã tước điểm tín nhiệm AAA của Mỹ hồi đầu tháng 8 vừa qua, trái phiếu kho bạc kỳ hạn từ 10 năm trở lên của nước này vẫn đem lại cho các nhà đầu tư mức nhuận suất hấp dẫn 25,6% trong năm nay.
 
Cuộc khủng hoảng nợ công lan rộng ở châu Âu và sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu thúc đẩy các nhà đầu tư đổ vốn vào các tài sản an toàn của Mỹ, trong đó có trái phiếu kho bạc. Nhờ đó, Chính phủ Mỹ có thể vay vốn với mức chi phí thấp để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Nếu tính theo phần trăm so với GDP, thì chi phí vay vốn của Washington năm nay còn thấp hơn cả khi nước này có thặng dư ngân sách trong lần gần đây nhất.
 
Bloomberg cho biết, tiền trả lãi của Chính phủ Mỹ trong năm tài khóa 2011 kết thúc vào ngày 30/9 chỉ chiếm 3% GDP, giảm so với mức 4% vào năm 1999. Trong thời gian Chính phủ Mỹ có thặng dư ngân sách từ 1998-2001, lực cầu trái phiếu kho bạc nước này chỉ cao gấp 2,26 lần khối lượng trái phiếu được chào bán.
 
Giới phân tích dự báo, trong năm tới, nhu cầu đối với trái phiếu kho bạc Mỹ sẽ còn mạnh, vì tài sản này là một trong số rất ít những tài sản mà giới đầu tư quốc tế còn xem là an toàn trong bối cảnh hiện nay. Đây là một tín hiệu cho thấy Tổng thống Barack Obama có thể sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc lấp chỗ trống cho khoản bội chi trên 1 nghìn tỷ USD trong năm thứ tư liên tục vào năm 2012.
 
Lần gần đây nhất trái phiếu kho bạc Mỹ dài hạn đem lại mức lợi nhuận lớn như năm nay là vào năm 1995, khi tài sản này tăng giá 30,7%.
 
Tính chung, trái phiếu kho bạc Mỹ năm nay đem về mức lợi nhuận 8,9% cho các nhà đầu tư, so với mức giảm 8% của chỉ số Thomson Reuters/Jefferies CRB Index - thước đo giá của các loại hàng hóa cơ bản, và mức tăng 0,6% của chỉ số Standard&Poor’s. Theo số liệu của ngân hàng Bank of America, giá trái phiếu chính phủ và các loại chứng khoán đảm bảo bằng nợ địa ốc trên phạm vi toàn cầu năm nay tăng 5,8%, còn trái phiếu doanh nghiệp tăng 4,3%.
 
Lực cầu cao đối với nợ Mỹ đồng nghĩa với sức mạnh cho đồng USD. Năm nay đang trên đà trở thành năm tăng giá thứ hai liên tục đối với đồng bạc xanh, với mức tăng khoảng 1,2%. Năm ngoái, đồng tiền này tăng giá 1,5% so với một rổ tiền tệ mạnh khác trong chỉ số Dollar Index của IntercontinentalExchange Inc. Đồng Yên Nhật là đồng tiền duy nhất có mức tăng giá cao hơn USD trong năm nay, với mức tăng 4,1%.
 
“Nước Mỹ đang hưởng lợi từ môi trường bất ổn toàn cầu”, ông Scott Graham, người đứng đầu bộ phận giao dịch trái phiếu chính phủ thuộc ngân hàng Bank of Montreal, nhận định. Tính đến tuần trước, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm là 2,02%, giảm nhiều so với mức 3,3% vào cuối năm 2010.
 
Nợ chính phủ Mỹ hiện đã vượt mức 15.000 tỷ USD. Trong 3 năm tài khóa từ tháng 10/2008-9/2011, Washington đã bội chi tổng cộng 4.000 tỷ USD. Trong năm tài khóa 2012, mức thâm hụt dự báo sẽ là 1.100 tỷ USD, giảm so với mức 1.300 tỷ USD vào năm 2011.
 
Theo dự báo của Bloomberg, kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2,1% trong năm 2012 và 2,5% trong năm 2013. Trong khi đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự báo mức tăng trưởng 2,7% cho năm 2012 và 3,25% cho năm 2013.
 
Theo Kiều Oanh
 
VnEconomy

 

Tin mới cập nhật