Ngày đăng :
09/07/2012 - 9:51 AM
Việc thành lập một công ty để xứ lý nợ xấu ngân hàng với chi phí dự kiến lên đến 100.000 tỷ đang gây ra nhiều tranh cãi.
Dù chưa có gì cụ thể nhưng chắc chắn nếu một công ty mua bán nợ có vốn 100.000 tỷ đồng chỉ để giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thì hẳn là một "siêu" công ty.
Ngay từ khi công bố ý tưởng, Ngân hàng nhà nước và các cơ quan liên quan khác đều nhấn mạnh đến mục tiêu lớn nhất của công ty này là "Xử lý nợ xấu" và đây cũng là yêu cầu lớn nhất để để khơi thông nguồn vốn, ổn định hệ thống ngân hàng.
Nhưng "xử lý nợ xấu" là làm gì? Đó có phải là một sự vụ đặc biệt cần đến một siêu công ty với sự tham gia trên nhiều phương diện của nhà nước hay đây là công việc thường xuyên và là một lĩnh vực kinh doanh mà ngân hàng đã và phải làm.
Thực tế, việc xử lý nợ xấu là một công việc thường xuyên và có một mục đích duy nhất sẽ là: thu hồi tối đa số tiền cho vay. Thông thường, khi xử lý nợ thường có 3 phương pháp cơ bản và các ngân hàng đang thực hiện.
Thứ nhất: phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi vốn
Đây là phương án khả dĩ nhất, nhanh nhất và truyền thống nhất trong các phương án. Tuy phải "đấu lý" với khách hàng tại tòa án và phải trải qua đủ các bước kiện tụng và chờ thi hành án thì tài sản đảm bảo mới được phát mại thu được tiền về. Trên con đường này, các ngân hàng thường nắm chắc 100% phần thắng vì hợp đồng cầm cố, thế chấp khi cho vay đã quá rõ ràng.
Việc phát mại tài sản thường đem về cho ngân hàng sự đảm bảo thu hồi vốn vì giá trị tài sản đảm bảo thường được định giá thấp hơn giá trị thực. Tuy nhiên, cái khó hiện nay của các ngân hàng là rất nhiều tài sản đảm bảo là bất động sản, nên trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng hiện nay thì việc xử lý nợ sẽ khó khăn hơn.
Hiện tại, các Ngân hàng đã thành lập Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc thì nhiệm vụ xử lý các tài sản đảm bảo thường giao cho AMC, đặc biệt là lĩnh vực bất động sản vì luật không cho phép ngân hàng tham gia thị trường bất động sản.
Thứ hai là tái cơ cấu nợ và hỗ trợ khách hàng để có thể trả nợ
Đây là biện pháp xử lý tài nợ xấu không mới, nhưng đang được áp dụng ngày càng nhiều hơn và có vẻ nhân đạo hơn. Các ngân hàng thay vì đẩy người dân ra khỏi nhà thì ngồi lại bàn bạc, tái cấu trúc và bàn phương án trả nợ như miễn giảm lãi, miễn giảm các khoản phải chi trả thay vì tịch thu nhà đất, đẩy khách hàng của mình ra đường.
Cách xử lý nợ xấu này ở Việt Nam có lẽ sẽ phù hợp nhiều hơn với các doanh nghiệp. Bản thân ngân hàng khi cho vay cần phải kiểm soát được mục đích và quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Khi có dấu hiệu không trả được nợ, họ có đủ tư cách để yêu cầu doanh nghiệp tái cấu trúc, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ để doanh nghiệp không bị đẩy vào bước đường phá sản, xuất hiện thêm cơ hội doanh nghiệp làm mới mình, có khả năng trả nợ trong tương lai.
Ngoài ra, việc biến các khoản nợ thành một phần góp vốn của chủ nợ ở các doanh nghiệp cũng đã được áp dụng khá nhiều. Và thực tế, DN có sự tham gia của ngân hàng đều có một tương lai mới tốt đẹp hơn.
Cái quan trọng nhất của biện pháp này là ngân hàng phải nắm được phương án trả nợ cam kết, cũng như các dự định tiến hành của khách hàng để từ đó kiểm soát được tình hình, tránh nợ xấu thêm,cung cấp các tư vấn tài chính, thậm chí là hỗ trợ khi cần thiết.
Thực tế, Tổng công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Bộ Tài chính (DATC) đã có những"phi vụ" thành công khi xử lý các khoản nợ tồn đọng cho các công ty theo hình thức này. Tuy nhiên, nhược điểm rất lớn của hình thức này chính là thời gian xử lý một món nợ tương đối lâu, nên rất khó để đáp ứng khối lượng nợ xấu hiện tại của ngân hàng thương mại.
Hiện nay, một ý kiến đang gây bất ngờ rất lớn là việc bán các khoản nợ có tài sản đảm bảo cho DATC. Tuy nhiên, bản chất việc xử lý nợ có tài sản đảm bảo thường ngân hàng tự xử lý được, không phải bán đi. Còn biện pháp tái cơ cấu nợ, chuyển nợ thành vốn góp thì sức lực của ngân hàng Việt Nam không đủ, thì có thể bán sang DATC.
Và thứ ba là những khoản nợ... chịu không làm gì được
Các khoản nợ dạng không tài sản đảm bảo, không có khả năng tái cơ cấu để trả nợ được và gần như không thể áp dụng các biện pháp thu hồi nợ nào cả. Những khoản nợ này thường đã rơi vào nợ nhóm 5 - nợ có nguy cơ mất vốn theo phân loại của NHNN.
Bản thân các ngân hàng đã phải trích lập 100% dự phòng rủi ro cho các khoản nợ này, rồi tách từ bảng cân đối nội bảng sang ngoại bảng để theo dõi riêng nhằm thu hồi triệt để. Tuy nhiên, việc nợ đã rơi vào nhóm 5, đã xuất sang ngoại bảng thì theo dõi thường cũng không có biện pháp gì thu hồi nợ triệt để và ngân hàng đã bỏ tiền túi của mình ra từ lợi nhuận để bù đắp.
Và sau 5 năm kể từ ngày xử lý rủi ro thì ngân hàng thương mại được phép xuất toán các khoản này khỏi ngoại bảng nếu doanh nghiệp phá sản giải thể, hoặc cá nhân thì chết, mất tích.
Đương nhiên, ngân hàng thương mại sẽ vô cùng phấn khởi khi bán được những khoản nợ này đi.
Cái quan trọng nhất là trong đám nợ xấu của các ngân hàng thương mại, có bao nhiêu phần trăm được phân định vào 1 trong 3 dạng ở trên. Sự minh bạch hay không sẽ nằm ở việc xử lý nợ theo phương án nào trong 3 phương án cơ bản ở trên.
Và bản thân một "siêu AMC" ngay từ khi nó ra đời đã bị đặt nhiều câu hỏi nghi vấn. Được biết, những ý tưởng đầu tiên về việc thành lập "siêu AMC" này đã hình thành từ năm 2001, qua hơn chục năm, 3 đời thống đốc vẫn sẽ tiếp tục còn tranh cãi, nhất là trong bối cảnh hệ thống pháp luật còn bất cập, nợ xấu đang gia tăng như hiện nay.
Và tuyên bố của Bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng chính phủ trong cuộc họp báo thường kỳ cũng làm yên tâm phần nào về đề xuất này.
Trong quá trình phát triển bùng nổ thời gian qua, Việt Nam cũng đã từng chứng kiến không ít cái "siêu" từ "siêu" dự án, cho đến "siêu" tập đoàn, công ty... thậm chí, mới đây còn có ý tưởng về một "siêu bộ" để quản lý các DNNN. Tuy nhiên, thực tế rất nhiều cái "siêu" ầm ĩ ra đời rồi giải tán thầm lặng mà không có hiệu quả nào đáng kể, thậm chí để lại những hậu quả "siêu lỗ".
Vì thế, trong khi trình độ quản lý còn nhiều hạn chế, pháp luật quản lý còn những điểm chưa rõ ràng thì việc hình thành các "siêu" phải hết sức thận trọng nếu không sẽ mang lại nhiều rủi ro riềm ẩn.
Theo Trần Anh Tuấn
VEF
|
Ngày đăng :
05/07/2012 - 2:25 PM
“Việc ‘đẻ’ ra công ty mua bán nợ chẳng khác gì thêm một doanh nghiệp độc quyền”, TS. Vũ Đình Ánh đưa ra quan điểm khi nói về đề án lập công ty mua bán nợ xấu ngân hàng.
Ông nói:
- Quan điểm của tôi là không xem xét thành lập công ty mua bán nợ.
Thứ nhất, trong nền kinh tế Việt Nam, nợ xấu quy mô lớn chỉ là một vấn đề nhưng không phải là vấn đề quan trọng nhất hiện nay.
Cái khó nhất của nền kinh tế hiện nay là giải quyết tình trạng sức mua giảm. Sức mua giảm dẫn đến tồn kho cao, đầu ra không giải quyết được lại dẫn đến tình trạng không có việc làm, không có thu nhập và như vậy không nảy sinh nhu cầu tiêu dùng. Đây là hệ quả tất yếu của tình trạng lạm phát cao tăng trưởng thấp.
Như vậy, nợ xấu chỉ là hệ quả của khó khăn kinh tế. Giả định, các doanh nghiệp vẫn có đầu ra tốt, tồn kho ít, thì nợ xấu không thể cao đến mức như hiện nay.
Mặt khác, một trong những mục tiêu của việc giải quyết nợ xấu là cải thiện điều kiện tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp. Nhưng bản chất nợ xấu không phải như vậy mà một phần nguyên nhân là cho vay thiếu kiểm soát. Tôi rất tán đồng với quan điểm của một chuyên gia nước ngoài: “Nếu xử lý nợ xấu theo kiểu thành lập công ty mua bán nợ chẳng khác gì trao phần thưởng cho những kẻ đã làm sai”. Không chỉ vậy, cách làm này thậm chí có thể khuyến khích cho những kẻ có ý định làm sai vì nghĩ làm xấu vẫn được cứu.
Thứ hai, nợ xấu của Việt Nam khác với các nước khác. Nợ xấu của Việt Nam gắn với nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước mặc dù đến thời điểm hiện nay, dư nợ của doanh nghiệp nhà nước trong tổng nợ xấu vẫn chưa được công bố.
Thêm vào đó, nợ xấu gắn với đầu tư công. Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam nhận dự án có vốn từ ngân sách nhà nước và vay ngân hàng để làm dự án. Sau đó, ngân sách không có vốn để rót cho dự án dẫn đến tình trạng nợ nần của doanh nghiệp. Cuối cùng món nợ này thành nợ của doanh nghiệp với ngân hàng. Ngoài ra, bản chất nợ xấu của Việt Nam không phải tại ngân hàng, rất nhiều trong các khoản này là cho vay theo chỉ định.
Tóm lại, từ bản chất rất riêng của nợ xấu hiện nay cho thấy không cần thiết phải thành lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu. Thay vào đó, việc xử lý nợ xấu chỉ xem như một phần trong chương trình tổng thể tái cơ cấu đầu tư công, gắn với tái cơ cấu nền kinh tế và tái cơ cấu hệ thống tài chính theo Nghị quyết 13.
Về hướng xử lý, thay vì ngân sách rót cho ngân hàng để mua lại phần nợ xấu này, nên dùng cách thanh toán bù trừ. Chẳng hạn, phát hành trái phiếu cho các khoản nợ, theo dạng viết giấy vay nợ. Với cách này, từ doanh nghiệp nợ biến thành Nhà nước nợ qua kênh trái phiếu.
Để việc xử lý nợ xấu thực hiện được, cần hình thành thị trường nợ. Để thị trường vận hành, bản thân người mua và người bán phải có cơ chế làm việc với nhau. Chẳng hạn, người mua và người bán tự làm việc với nhau hoặc hình thành các định chế hỗ trợ, đó là các công ty đánh giá tài sản, công ty định giá nợ.
Để làm được điều này, cần phải hiểu bản chất từng khoản nợ, nhưng đến nay, đây vẫn là một câu hỏi lớn.
Đến nay, thị trường mua bán nợ của Việt Nam vẫn chưa phát triển vì chưa có khuôn khổ pháp lý cho loại thị trường này. Khuôn khổ pháp lý cần quy định rõ luật chơi cho những người tham gia, cách xử lý tài sản đảm bảo.
Chẳng hạn, các công ty mua bán nợ của ngân hàng, các quỹ, các công ty bảo hiểm có được tham gia thị trường không?
Như vậy, để vận hành được, trên thị trường tài chính, bên cạnh cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, cần có một loại tài sản nữa là “nợ đã biến thành giấy”. Khi thị trường đã phát triển sẽ có các sản phẩm phái sinh đa dạng hơn và nợ chỉ là một loại hàng hóa.
Đã đến lúc phải hình thành dạng thị trường này. Việc xử lý nợ hiện nay không như trước đây nhiều năm vì thị trường đã rộng mở, đa dạng đối tượng và quy mô cũng hoàn toàn khác. Do đó, không thể lặng lẽ làm được. Về thời gian xử lý, không kỳ vọng có thể xử lý nhanh được mà là cả quá trình gắn với tái cơ cấu nền kinh tế.
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý là nguyên nhân gây ra nợ xấu là sở hữu chéo. Nếu không xử lý được tình trạng sở hữu chéo này thì không xử lý được vấn đề nợ xấu hiện nay. Bởi vì, sở hữu chéo khiến khó nhận dạng được con nợ và chủ nợ thực sự trong hệ thống. Trong thời gian dài việc quản lý sở hữu quá lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng, không nhận diện được những chủ sở hữu thực sự.
Một điểm đáng lưu ý nữa, việc “đẻ” ra công ty mua bán nợ như thế này chẳng khác gì thêm một doanh nghiệp độc quyền. Trong khi đó, đây lại là siêu công ty. Trong giai đoạn đang tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, việc hình thành thêm một siêu tổng công ty có tính độc quyền như vậy có là cần thiết?
Theo Lê Hường
Vneconomy
|
Ngày đăng :
02/07/2012 - 10:52 AM
Hôm nay 29/6, lãi suất qua đêm liên ngân hàng chỉ còn 4,88%/năm, giảm 1,42% so với hôm qua; kỳ hạn 1 tuần còn 5,63%, giảm 1,57%.
Theo dữ liệu của Reuters, lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn ngắn có ngày giảm mạnh thứ 3 liên tiếp.
Hôm nay 29/6, lãi suất qua đêm chỉ còn 4,88%/năm, giảm 1,42% so với hôm qua; kỳ hạn 1 tuần còn 5,63%, giảm 1,57%.
Như vậy chỉ trong hai ngày 28 và 29/6, lãi suất qua đêm liên ngân hàng giảm tổng cộng 2,12% và kỳ hạn 1 tuần giảm gần 2%. So với mức cao 2 tháng là 7,5%/năm hôm 26/6, lãi suất qua đêm hiện đã giảm 2,62%.
Kỳ hạn dài từ 1 tháng trở lên trong khi đó tiếp tục tăng. Kỳ hạn 1 tháng tăng từ 8,96% của hôm qua lên 9,13%/năm trong ngày hôm nay; kỳ hạn 3 tháng tăng từ 10,4% lên 11,13%, kỳ hạn 6 tháng tăng từ 10,8% lên 11,25%/năm.
Cũng theo dữ liệu từ Reuters, trong ngày cuối tháng 6, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ra thị trường mở (OMO) 34 tỷ đồng với lãi suất 8%/năm, kỳ hạn 7 ngày.
Thành Hưng
Theo TTVN
|
Ngày đăng :
29/06/2012 - 10:03 AM
Thị trường ngoại hối đang có dấu hiệu “nóng” trở lại khi nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) bắt đầu có động thái gom ngoại tệ (USD) nhằm tính lại bài toán lợi nhuận.
Nhà băng ngoại muốn gom USD
Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, từ đầu năm 2011 đến nay NHNN đã mua vào 9 tỉ USD, nghĩa là đã bơm ra thị trường 180.000 tỉ đồng. Động thái bơm tiền đồng - hút ngoại tệ này đã làm cho thanh khoản các NHTM tốt hơn thời điểm quý 4/2011 và LS VND liên tiếp giảm trong thời gian qua, tuy nhiên có thể sẽ tạo thành những cơn địa chấn hâm nóng tỷ giá, khiến thị trường ngoại tệ nổi sóng trong thời gian tới.
Bởi trước 11.6, với trần LS tiền gửi khá cao (14%/năm, 13%/năm, và 12%/năm), tỷ giá được NHNN tuyên bố biến động không quá 3%, nhiều TCTD (phần lớn là NH nước ngoài) bán USD cho NHNN, lấy VND để kinh doanh trên thị trường liên NH nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng 2 tuần trở lại đây, khi NHNN đột ngột giảm trần LS huy động còn 9%/năm (ngắn và trung hạn), lập tức các nhà “buôn” USD tìm cách vay VND, mua lại ngoại tệ đã bán nhằm mục đích tăng cường găm giữ. Một chuyên gia tài chính cho biết đây là nguyên nhân trong những ngày vừa qua LS trên thị trường liên NH bỗng nhiên nổi sóng. Cụ thể, ngày 27.6, LS kỳ hạn 1 tuần ở mức 7,5-8%/năm và LS kỳ hạn 1 tháng 8,5-9%/năm. Trước đó vài ngày, LS liên NH kỳ hạn trên 1 tháng thậm chí còn vượt qua mức trần 9%/năm, điển hình ngày 21.6 với lãi suất 9,5%/năm. “LS liên NH mà giảm sâu và đứng lâu ở mức chỉ 3-4%/năm như thời gian qua thì các nhà giữ USD sẽ tính toán lại bài toán kinh doanh sao cho hiệu quả, không giữ VND để kinh doanh mà chuyển sang mua USD”, chuyên gia này nói.
Theo tổng giám đốc một NH cổ phần lớn tại TP.HCM, NHNN lo ngại các TCTD nước ngoài quay ra mua lại USD do LS VND trên thị trường 2 quá thấp, làm cho nguồn cung USD khan hiếm. Đương nhiên, lúc đó NHNN lại phải đẩy LS VND lên cao để đảm bảo VND giữ giá trị so với USD, dẫn đến VND trở nên khan hiếm. “Đó là bài toán khó và là quy luật bất thành văn trên thị trường tiền tệ”, vị tổng giám đốc này nói.
Áp lực dự trữ ngoại hối
Không chỉ trên thị trường liên NH, động thái mua gom USD của các TCTD, khiến NHNN phải căn chỉnh lại cả lãi suất trên thị trường mở (OMO). Thời gian qua, việc để LS tái cấp vốn quá cao trên thị trường này (hơn 10%/năm) đã khiến các NH không muốn vay, mà chạy sang tìm nguồn vốn vay trên thị trường liên NH. Đó chính là lý do khiến LS trên liên NH dậy sóng và ngày 27.6, NHNN buộc phải điều chỉnh xuống LS trên OMO xuống thấp nhất kể từ tháng 11/2010, còn 8%/năm, để cân đối nguồn cung trên cả 2 thị trường.
Tuy nhiên, áp lực đối với dự trữ ngoại hối và tỷ giá đang khá lớn. Tại một cuộc trao đổi gần đây, ông Phạm Hồng Hải, Phó tổng giám đốc NH HSBC Việt Nam, cho rằng trong quý 3, tỷ giá sẽ vẫn nằm ở mức hiện tại, tức chỉ xoay quanh 20.850 đồng/USD, và sẽ tăng lại vào quý 4, khi mà nhu cầu mua ngoại tệ nhập hàng bán tết, trả nợ vay tăng cao. Đồng thời sẽ có một luồng dịch chuyển tiền đồng sang USD do LS tiền đồng giảm xuống. Một vấn đề cũng cần quan tâm, theo ông Hải đó là nguồn ngoại tệ từ nhà đầu tư nước ngoài, điều này phải xem xét theo tình hình kinh tế thế giới, nếu khủng hoảng nợ châu Âu chưa chấm dứt, nhiều nhà đầu tư sẽ phải rút tiền về để bù vào các khoản lỗ, lúc đó chắc chắn tỷ giá sẽ chịu ảnh hưởng.
Bên cạnh đó, vài tháng tới khoảng 64.000 tỉ đồng tín phiếu do NHNN phát hành sẽ đáo hạn. Điều này có nghĩa lượng tiền trên sẽ sớm trở về với các NH thương mại và nếu LS VND thấp, khả năng họ quay sang mua USD rất dễ xảy ra. Trong khi đó, nguồn cung USD đang có dấu hiệu thiếu hụt, khi mà thời gian qua lượng vốn giải ngân FDI, ODA và nguồn vốn gián tiếp (FII) vào Việt Nam quá ít ỏi. Cùng với đó, LS tiền gửi USD chỉ 1-2%/năm, khiến cho nguồn kiều hối không vào mạnh như mọi năm, kiều bào cũng không còn xu hướng vay USD ở nước ngoài với LS thấp để gửi về Việt Nam kinh doanh, và gửi tiết kiệm. Tại TP.HCM, con số này tính đến tháng 6 chỉ đạt 1,9 tỉ USD, thấp hơn rất nhiều so với mọi năm.
Những dấu hiệu trên cho thấy, nếu điều hành chính sách không khéo léo, rất có thể thị trường ngoại hối sẽ dậy sóng, USD sẽ tăng giá so với VND.
Theo Anh Vũ
Thanh niên
|
Ngày đăng :
28/06/2012 - 9:59 AM
Đó là quan điểm của TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng trong cuộc phỏng vấn với ĐTCK.
NHNN vừa phát đi thông điệp sẽ thành lập AMC, trực thuộc NHNN với số vốn 100.000 tỷ đồng để mua lại nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM). Ông có bình luận gì?
Theo tôi, Công ty Mua bán nợ xấu (AMC) quốc gia được đặt dưới sự chủ trì của NHNN là hoàn toàn hợp lý. Vì NHNN nắm vững tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) bởi thường xuyên thanh tra, kiểm tra, kiểm toán…
Nhưng, tôi cho rằng, về tổ chức, AMC không nên là một đơn vị của NHNN mà chỉ nên là một công ty nằm dưới sự quản lý, chỉ đạo của NHNN. Lý do là nếu AMC nằm trong hệ thống của NHNN thì e rằng NHNN sẽ bị phân tán nguồn nhân lực, suy giảm về năng lực kiểm tra, thanh tra cũng như là quản lý hệ thống các NHTM.
Trên thực tế, nguồn nhân lực của AMC sẽ là rất lớn, cần rất nhiều chuyên viên, chuyên gia, cán bộ, nhân viên có khả năng phục vụ…
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Việt Nam đã có Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN (DATC), trực thuộc Bộ Tài chính nên việc có thêm một AMC thuộc NHNN là không cần thiết. Quan điểm của ông ra sao?
Chức năng của DATC chủ yếu là mua nợ của các DN, xử lý nợ giữa các DN với nhau, giúp các DN tái cơ cấu, chứ không chuyên về mua nợ của các ngân hàng. Trong khi đó, nợ của các ngân hàng rất phức tạp, bao gồm tín chấp và thế chấp, đòi hỏi việc phân tích các báo cáo tài chính, thẩm định các tài sản thế chấp và dòng tiền ra vào của các DN đi vay... Do đó, việc mua nợ của các ngân hàng thực tế được tiến hành ở tầm quốc gia rất phức tạp và có qui mô rất lớn và DATC sẽ không kham nổi. Tuy nhiên, nếu Chính phủ quyết định dùng DATC cho công tác mua nợ có tầm quốc gia này, thì DATC cần phải được tăng cường về nhân lực và vốn.
Vậy, các AMC đang nằm trong các ngân hàng thương mại thì nên tính sao?
Hiện tại, có khoảng 18 AMC trên toàn quốc là của các ngân hàng. Phần lớn ngân hàng đẩy những khoản nợ xấu của ngân hàng mình vào trong AMC, để từ đó, đẩy qua các AMC khác, làm mất dấu nợ xấu, đẩy nợ xấu ra khỏi bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Tuy nhiên, trong đó, cũng có những giao dịch thực. Dẫu sao những AMC của các ngân hàng cũng có kinh nghiệm về mua bán xử lý nợ, nên trong tương lai, các AMC này có thể tham gia hệ thống mua bán nợ ngân hàng trên tầm quốc gia, tuy nhiên, phải đặt dưới sự chủ trì của NHNN.
Vậy, nếu AMC (quốc gia) nằm dưới sự chủ trì của NHNN có vấn đề gì cần phải quan ngại?
Có một vài quan ngại. Công ty mua bán nợ có mục đích là giải quyết vấn đề nợ trên phạm vi quốc gia và nó phải phục vụ cho quyền lợi của quốc gia. Nếu các NHTM bán nợ mà công ty mua nợ cũng nằm trong hệ thống ngân hàng thì sẽ xảy ra xung đột về lợi ích và có thể công ty đó cũng không thực hiện đúng theo mục đích của nó là giải quyết vấn đề nợ vì quyền lợi của đất nước. Công ty mua nợ là người mua, bán nợ là các NHTM, thành ra người mua và người bán không thể nằm cùng một phía được mà phải tách biệt ra. Chính vì thế mà nó phải nằm ở ngoài hệ thống NHTM.
Để mua 14 tỷ USD nợ xấu, với tỷ lệ chiết khấu 50% thì AMC cần phải có khoảng 7 tỷ USD
Để AMC vận hành có kết quả, theo ông cần hội tụ những yếu tố gì?
Thứ nhất, AMC phải có đội ngũ nhân lực có kiến thức và kinh nghiệm về nợ, về tín dụng và ngân hàng. Đây chính là điều kiện tiên quyết. Dĩ nhiên, chúng ta cũng nên mời gọi các công ty kiểm toán độc lập quốc tế, các công ty tư vấn quốc tế tham dự chương trình này.
Thứ hai, đội ngũ nhân lực này phải đặt quyền lợi của quốc gia lên trên hết, chứ không phải là quyền lợi của công ty hay nhóm lợi ích nào, bởi trong vấn đề xử lý nợ này sẽ đưa đến vấn đề hết sức gay go là cái giá phải trả cho những món nợ. Có những món nợ mà chiết khấu của nó thấp, chỉ 5 - 10% hoặc có những món nợ tương đối có thể thu hồi được. Có những món nợ có thể mất vốn thì chiết khấu của nó có thể xuống đến 80 - 90%, thậm chí 95%, thì trong tất cả những khâu trong tiến trình thương lượng thì vấn đề định giá món nợ trên tỷ lệ chiết khấu là vấn đề vô cùng quan trọng. Những người làm việc trong công ty nợ phải là những người thật sự nhiệt tâm phục vụ cho quyền lợi của đất nước, chứ không phải cho nhóm lợi ích nào, vì thế, sự liêm chính của họ là điều tối quan trọng.
Thứ ba, những công ty này phải có nguồn vốn rất lớn. Theo thống kê, tổng dư nợ hiện tại của các NHTM ước khoảng 2,7 triệu tỷ đồng (tức khoảng 135 tỷ USD), trong đó, nợ xấu chiếm tỷ lệ khoảng 10%, nghĩa là khoảng 14 tỷ USD. Để mua 14 tỷ USD nợ xấu (danh nghĩa), với tỷ lệ chiết khấu dự kiến là 50% thì AMC cần phải có khoảng 7 tỷ USD. Đây chính là điều kiện tiên quyết để công ty xử lý nợ này vận hành tốt. Hiện tại, NHNN đã đưa ra đề xuất là AMC cần phải có 100.000 tỷ đồng (hay 5 tỷ USD). Theo tôi, lượng tiền này có thể không đủ để xử lý các khoản nợ xấu của các NHTM hiện tại, nhưng ít nhất, chúng ta cũng đã nhìn thấy một kế hoạch cụ thể và đáng kể của NHNN.
Với kinh nghiệm nhiều năm làm việc ở nước ngoài, theo ông, những vấn đề khó khăn nhất trong việc vận hành AMC là gì ?
Các ngân hàng có thể sẽ đẩy nợ xấu nhất trước cho công ty này và giữ lại một số khoản nợ nào đó mà ngân hàng cảm thấy chưa đến nỗi mất hy vọng sẽ thu hồi được nợ, vì bán sẽ phải chiết khấu. Hay ngân hàng có những món nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp và tìm cách thâu tóm tài sản này bằng cách đẩy lãi suất lên cao để con nợ không còn cách nào khác là cho ngân hàng siết tài sản thế chấp này để khấu trừ vào nợ. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng có thể không muốn bán hết tài sản nợ xấu, thành ra Chính phủ phải có hành lang pháp lý liên quan đến việc tổ chức, vận hành và giám sát AMC, quy chế về những loại nợ nào cần phải bán.
Bên cạnh đó, AMC phải thực hiện được mục tiêu tối hậu là làm sạch sẽ ‘cơ thể’ của các ngân hàng, giúp các ngân hàng tập trung vào vấn đề kinh doanh, phục vụ hữu hiệu nền kinh tế.
Theo Hồng Dung
ĐTCK
|