Ngày đăng :
12/07/2012 - 8:51 AM
Khi nói về tác động của việc tăng giá điện, bà Nguyễn Thị Minh, Thứ trưởng Bộ Tài chính, cho rằng, sẽ không có tác động nhiều, vì doanh nghiệp nào sử dụng nhiều điện nhất, điện cũng chỉ chiếm 10% giá thành.
Nếu tiết kiệm điện, giảm chi phí sản xuất, doanh nghiệp sẽ bù đắp được tác động từ giá điện.
Tuy nhiên, cách lý giải này, theo nhiều ông chủ doanh nghiệp, chỉ hợp lý trong bối cảnh thị trường đang diễn biến tích cực. Còn như hiện nay, doanh nghiệp đã có quá nhiều cái khó do tác động lạm phát liên miên, lãi suất cao, khó tiếp cận vốn, hàng hóa tồn kho lớn.
Hãy lấy một ví dụ: một doanh nghiệp sản xuất có số thuế giá trị gia tăng phải nộp mỗi tháng là 2 tỉ đồng. Nhờ chính sách giãn thuế giá trị gia tăng của Chính phủ, doanh nghiệp dùng 2 tỉ đồng tiền thuế chậm nộp ấy để bổ sung vốn lưu động và không phải vay 2 tỉ đồng từ ngân hàng nữa. Khi đó, mỗi tháng doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được 25 triệu đồng tiền lẽ ra phải trả lãi ngân hàng (nếu lãi suất là 15%/năm).
Cũng doanh nghiệp này, trước đây mỗi tháng dùng hết 2 tỉ đồng tiền điện. Với mức tăng giá điện 5%, mỗi tháng họ phải chi thêm 100 triệu đồng. Như vậy, trong khi giải pháp giãn thuế giúp doanh nghiệp tiết kiệm được 25 triệu đồng/tháng, thì giá điện tăng khiến họ tốn thêm 100 triệu đồng/tháng. Tất nhiên đây chỉ là một so sánh tương đối, vì mỗi doanh nghiệp có lượng điện sử dụng khác nhau.
Tưởng có lý mà lại không
Chủ tịch Hội đồng quản trị một công ty thép ở Vĩnh Phúc (không muốn nêu tên) bức xúc với việc tăng giá điện lúc này. “Các mặt hàng điện, than, xăng, dầu là đầu vào quan trọng của sản xuất, nên cần đồng điệu theo chủ trương của Chính phủ. Nếu không, hầu hết con số khác đều giảm để cứu doanh nghiệp, nhưng chỉ cần một hai con số đi ngược lại thì không tạo hiệu ứng tâm lý tốt”, ông nói.
Ông Nguyễn Thành Lưu, Giám đốc Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Sản phẩm xanh Việt Nam, cũng lo âu khi sản phẩm không bán được mà giá điện lại tăng. “Nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, thu hẹp sản xuất. Việc ngành điện thua lỗ đã xảy ra từ lâu nay, nếu chờ thêm một thời gian nữa hãy tăng giá bù lỗ cho ngành điện cũng không sao”, ông Lưu nói.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng thời điểm này tăng giá điện là rất không hợp lý. Nghị quyết 13 đã đưa ra các giải pháp miễn giảm, giãn thuế, Ngân hàng Nhà nước cũng đã giảm lãi suất. Nhưng doanh nghiệp chưa kịp hưởng lợi, vì các chính sách này có độ trễ, thì đã phải chịu tác động ngay lập tức từ tăng giá điện. Bà Lan cũng nhấn mạnh đến việc người tiêu dùng đã chịu tác động của lạm phát cao, nên sức mua đã xuống thấp.
Nếu nhìn vào chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng qua chỉ tăng 2,52%, có thể việc tăng giá điện được xem là hợp lý. Thế nhưng, tưởng vậy mà lại không phải vậy. Tiến sĩ Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng việc giảm chỉ số giá cả liên tục từ tháng 3 đến hết tháng 6 là do tổng cầu của nền kinh tế giảm, chứ không phải là do giảm chi phí.
Ông Lưu cũng đồng tình với quan điểm lạm phát giảm do cầu giảm chứ không hẳn do giảm giá. Ông cho biết, hiện nay, doanh số bán hàng quá thấp, nên để đủ chi phí điện, xăng, tiền thuê mặt bằng, doanh nghiệp không thể giảm giá bán hàng. Đó là lý do tại sao chỉ số giá tiêu dùng giảm mà không thấy giá hàng hóa giảm trên thực tế.
Giá điện sẽ còn tăng
Ông Lưu cho rằng vẫn còn dư địa để không tăng giá điện, miễn là kiểm soát được giá thành, chống được thất thoát, chứ không thể cứ nói lỗ là tăng giá. Điều cốt lõi theo ông Lưu là cần giải quyết bài toán cạnh tranh của ngành điện giống như ngành viễn thông trước đây. “Chúng ta đã giải quyết bài toán viễn thông rất giỏi. Người dân phải cảm ơn ông Mai Liêm Trực và ông Đỗ Trung Tá. Vậy tại sao điện và xăng dầu cứ nhùng nhằng độc quyền. Vấn đề là do Bộ trưởng. Không phải là khó mà là có muốn làm hay không”, ông nhận xét.
Một thông tin rất đáng chú ý là trong cơ cấu tính giá thành điện, thì tổn thất điện năng vẫn lên đến 10%. Đây là mức khá cao, mà nếu tiết giảm, sẽ giảm đáng kể chi phí giá thành điện.
Nhưng đó chỉ là cách suy luận của người tiêu dùng. Còn thực tế, có vẻ như giá điện sẽ vẫn tăng. Bởi mới đây, lãnh đạo Bộ Công Thương đã cảnh báo trước thời điểm tăng giá điện, đó là từ ngày 1.7 bắt đầu thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh, nhưng có nguy cơ giá điện sẽ tăng. Lý do là các doanh nghiệp phát điện đều có xu hướng tăng giá chào bán điện, vì họ khó khăn về tài chính.
Bình luận về cảnh báo này, bà Phạm Chi Lan cho rằng cơ quan Nhà nước không nên nói giúp doanh nghiệp điện là họ khó khăn tài chính. Vì khó khăn tài chính là khó khăn chung của nhiều doanh nghiệp hiện nay. “Nếu chỉ ngành điện được tăng giá do khó khăn tài chính thì các doanh nghiệp khác có khó khăn tài chính, ai sẽ là người gánh chịu. Chẳng lẽ các ngành đều đổ dồn giá tăng lên xã hội”, bà Lan nói.
Bên cạnh đó, bà Lan cho rằng thị trường điện cạnh tranh như hiện nay mang tính nửa vời. Bởi lẽ, cạnh tranh chỉ có ở khâu phát điện và làm gì có chuyện thị trường điện cạnh tranh khi vẫn chỉ có một người mua là Tập đoàn Điện lực. Từ góc nhìn này, bà Lan cho rằng chủ trương kéo dài đến năm 2022 mới có thị trường điện cạnh tranh để duy trì độc quyền chỉ làm lợi cho Tập đoàn Điện lực.
Theo Vũ Dũng
Nhipcaudautu
|
Ngày đăng :
10/07/2012 - 8:51 AM
Có 71,43% doanh nghiệp được hỏi tin rằng trong 12 tháng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ tốt hơn, chỉ có 3,09% lo lắng về tương lai của nền kinh tế trong năm 2012.
Công ty Dịch vụ Thông tin Tài Chính WVB Việt Nam (WVB FISL) vừa công bố kết quả cuộc khảo sát Chỉ số niềm tin kinh doanh WVB cho Quý II năm 2012.
Đây là cuộc khảo sát được tiến hành hàng Quý do công ty WVB Việt Nam tổ chức. Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp đứng đầu cả nước về thương hiệu, tổng tài sản, tổng doanh thu và số lượng nhân viên. Cuộc khảo sát kéo dài từ ngày 15/6 đến tuần đầu tháng 7/2012 đã thu hút sự tham gia của 154 doanh nghiệp thuộc 11 lĩnh vực ngành nghề chủ chốt của Việt Nam. Hơn một nửa trong số đó là các doanh nghiệp đại diện cho khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo kết quả điều tra, Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) Quý II năm 2012 tăng 7 điểm so với Quý I năm 2012 (113 điểm) và tăng 20 điểm so với lần thực hiện đầu tiên vào Quý III năm 2008 (100 điểm).
Chỉ số BCI Quý II năm 2012 tăng nhẹ so với Quý I năm 2012 cho thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn lạc quan nhiều hơn số doanh nghiệp bi quan và phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng hiện tại nền kinh tế Việt đã tốt hơn 12 tháng trước và trong thời gian tới có triển vọng phát triển tốt hơn nữa.
Kết quả điều tra 6 cấu phần xây dựng nên Chỉ số niềm tin kinh doanh Quý II năm 2012 có những điểm nổi bật sau:
Về tình hình kinh tế chung của Việt Nam hiện nay: Có 44,16% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng nền kinh tế chung của Việt Nam hiện nay đã tốt hơn so với 12 tháng trước, 35,71% cho rằng điều kiện kinh tế của Việt Nam vẫn giữ nguyên và 20.13% cho rằng điều kiện kinh tế có phần kém hơn so với 12 tháng trước.
Dự đoán tình hình kinh tế Việt Nam 12 tháng tiếp theo: 71,43% doanh nghiệp tin rằng trong vòng 12 tháng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ tốt hơn. Chỉ có 3,09% lo lắng về tương lai của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012.
Kế hoạch sử dụng nhân viên: Có 35,06% doanh nghiệp dự tính sẽ tăng thêm nguồn nhân lực, 50,65% doanh nghiệp dự tính sẽ giữ nguyên và 14,29% doanh nghiệp giảm số nhân lực trong thời gian tới.
Kế hoạch đầu tư cho tài sản cố định: 41,56% doanh nghiệp tham gia khảo sát dự định giữ nguyên chi phí đầu tư cho tài sản cố định; 47,40% doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư thêm và 11,04% doanh nghiệp có kế hoạch giảm chi phí đầu tư vào tài sản cố định trong 12 tháng tới.
Niềm tin vào sự tăng trưởng doanh thu: 72,73% doanh nghiệp tham gia khảo sát tự tin rằng doanh thu của doanh nghiệp sẽ tăng, 19,48% doanh nghiệp cho rằng doanh thu của mình sẽ giữ nguyên và chỉ có 7,79% doanh nghiệp lo ngại về con số doanh thu của mình trong 12 tháng tới.
Niềm tin vào sự tăng trưởng lợi nhuận: 70,78% doanh nghiệp tin rằng lợi nhuận sẽ tăng lên trong năm tới. 24,68% doanh nghiệp cho rằng lợi nhuận sẽ giữ nguyên và 4,55% doanh nghiệp lo ngại về sự suy giảm lợi nhuận trong 12 tháng tới.
Thủ tục về tín dụng và thuế còn nhiều rắc rối
Nhóm khảo sát doanh nghiệp của WVB FISL cũng khảo sát về những vấn đề như khó khăn trong nước mà các DN đang gặp phải. Đa số câu trả lời đều cho rằng thủ tục cho vay tín dụng và chính sách thuế là khó khăn lớn nhất mà hầu hết các DN đều vướng mắc, bên cạnh đó chất lượng hàng giả, hàng nhái cũng là vấn đề mà các DN quan tâm vì nó làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sản phẩm cũng như uy tín của các DN.
Phần lớn các DN đều cho rằng giải pháp tốt nhất để tháo gỡ khó khăn cho các DN trong bối cảnh kinh tế hiện nay là phải kích cầu để tăng sức tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ (chiếm 30.12%), các ngân hàng phải hạ lãi suất cho vay, tái cơ cấu nợ cũng như hỗ trợ DN tiếp cận vốn. ðể tiếp cận được nguồn vốn một cách dễ dàng thì phần lớn các DN nghiệp được phỏng vấn đều cho rằng NHNN nên tiếp tục giảm lãi suất cho vay, điều kiện cho vay mở, cải tiến quy trình thủ tục cho vay vốn…
Câu hỏi về gói giải pháp hỗ trợ DN do Bộ Tài Chính đề xuất có tác động tài chính ước tính khoảng 29.000 tỷ đồng (giãn thuế, miễn giảm thuế, hoãn thu phí,,,,) có cải thiện được đáng kể tình hình khó khăn chung hiện nay không? Có đến 68.83% quan điểm chung của các chủ DN đều cho là có.
Cũng theo đó, giá xăng dầu trong nước gần đây liên tục được điều chỉnh tăng giảm, và hơn nửa các DN được phỏng vấn đều cho rằng giá xăng dầu trong nước cũng vẫn sẽ điều chỉnh giảm tiếp trong vòng 3 tháng tới. Nhận định về những yếu tố sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong vòng 6 tháng cuối năm thì quan điểm chung của các chủ DN đều là lạm phát, bất ổn kinh tế, khó khăn trong huy động vốn nhu cầu tiêu dùng đang trên đà suy giảm là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động SXKD của DN.
Tuy nhiên, BCI tăng điểm nhẹ trong quý này cho thấy niềm tin của các chủ doanh nghiệp nói riêng và giới kinh doanh nói chung cũng đã thiện rõ rệt sau sự giảm điểm quý trước./.
Theo Vũ Hạnh
VOV online
|
Ngày đăng :
09/07/2012 - 9:43 AM
Giai đoạn 2006 – 2009 Việt Nam đã huy động một lượng lớn vốn TPCP phục vụ đầu tư, nhưng có chênh lệch dương khá lớn giữa số huy động và giải ngân.
Trong tuần qua, Bộ Tài Chính Việt Nam đã cảnh báo về khả năng ngân sách nhà nước sẽ thất thu do tình trạng trì trệ của nền kinh tế đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ tiếp tục đưa ra thông điệp sẽ giải ngân khoảng 22.000 tỷ đồng/tháng vốn ngân sách phục vụ đầu tư trong 6 tháng cuối năm 2012. Rõ ràng, xét về mặt bản chất có thể xem Việt Nam đi theo hướng chính sách tài khóa nghịch chu kỳ - điều thường thấy ở các quốc gia phát triển hay, các nước có tài chính quốc gia lành mạnh.
Nhưng với tình trạng dàn trải, phân tán, hiệu quả thấp, tốn kém, lãng phí, thiếu đồng bộ trong đầu tư công và thâm hụt ngân sách ở mức cao những năm vừa qua, đặt ra quan ngại về khả năng tái lạm phát, bất ổn vĩ mô trong thời gian tới. Dù cho nhiều thành viên Chính phủ khẳng định rằng, việc giải ngân 22.000 tỷ đồng/tháng hoàn toàn nằm trong kế hoạch mà Chính phủ đã dự liệu từ trước, không lo lạm phát, thì hoài nghi khác về khả năng bất ổn vĩ mô đến từ thâm hụt ngân sách, nợ công cao và vốn đầu tư không mang lại giá trị đóng góp thu cho tương lai là khó tránh khỏi.
Nợ công của Việt Nam hiện đang là bao nhiêu?
Rõ ràng đây là câu hỏi khó trả lời. Bởi trong khi các tổ chức quốc tế uy tín cho rằng nợ công Việt Nam năm 2010 đang ở mức khoảng 51% GDP, trong khi đó Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết nợ công ở mức 57,3% GDP, nợ Chính phủ 47,5% GDP...
Năm
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Nợ công/GDP (%)
|
40,4%
|
42,3%
|
43,7%
|
45,4%
|
48,9%
|
48,9%
|
51%
|
51,7%
|
Nợ nước ngoài khu vực công/GDP
|
N/a
|
29,9%
|
27,8%
|
26,7%
|
28,2%
|
25,1%
|
29,3%
|
31,1%
|
Nợ công Việt Nam qua các năm. Nguồn EIU
Tuy nhiên, 51% hay 57,3% đều phản ánh một tình trạng chung đó là nợ công Việt Nam đang tăng khá nhanh. Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia thì năm 2007 nợ công Việt Nam ở mức 33%GDP, đến 2010 nợ công ở mức khoảng 56,7% GDP.
Liệu việc chi mạnh tay cho đầu tư công trong quá khứ sẽ còn ảnh hưởng như thế nào đến tương lai?
Theo báo cáo quyết toán hàng năm của Bộ Tài chính, chi đầu tư phát triển nếu chỉ tính trong NSNN sẽ không có vấn đề. Vấn đề là vốn đầu tư được sử dụng như thế nào, quản lý và triển khai dự án. Bởi, thu từ thuế, phí, lệ phí hàng năm lớn hơn chi thường xuyên và tạo ra khoản thặng dư lớn tài trợ cho chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên tăng lên hàng năm.
Tuy nhiên, ngân sách nhà nước vẫn phải chi trả cho các khoản chi đầu tư nguồn trái phiếu Chính phủ. Vì vậy, nếu tính cả khoản chi này, ngân sách đã dành tỷ trọng tương đối lớn cho đầu tư. Bình quân giai đoạn 2003 – 2010 chi đầu tư khoảng 10,91% GDP trong đó bình quân chi đầu tư giai đoạn 2003 – 2006 là 10,1% GDP; giai đoạn 2007 – 2010 là 11,72% GDP.
Huy động TPCP phục vụ đầu tư phát triển xã hội là cần thiết. Nhưng có chênh lệch lớn giữa số vốn được huy động và giải ngân vốn đầu tư hàng năm. Dù cho rằng huy động vốn qua phát hành TPCP trong nước không làm tăng gánh nặng nợ nần cho các thế hệ tương lai, việc bố trí, giải ngân vốn thừa công suất lớn sẽ gây lãng phí, gánh nặng ngân sách do trả lãi TPCP cũng tăng lên.
Nguồn: Số liệu Bộ Tài Chính, Kiểm toán Nhà nước
Bên cạnh đó, từ năm 2006 huy động vốn TPCP của Việt Nam gặp thuận lợi hơn đã đẩy số vốn huy động quy đổi sang đồng Việt Nam tăng khá mạnh; TPCP huy động chủ yếu kỳ hạn 5 năm và 10 năm. Kỳ trả nợ gốc của các khoản vay giai đoạn 2006 bắt đầu từ năm 2011. Điều này cho thấy, tiềm ẩn nguy cơ tăng thâm hụt ngân sách từ năm 2011 do chi trả nợ gốc tăng, và nợ Chính phủ vẫn duy trì ở mức cao.
Như vậy, với bối cảnh hiện nay, giải ngân vốn phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản đối với Chính phủ là hết sức thận trọng nhằm đảm bảo vốn đầu tư vào các dự án không thâm dụng vốn, sẽ mạng lại nguồn thu trong tương lai gần. Bởi nguy cơ thâm hụt ngân sách cao do chi trả nợ gốc đến từ việc chi mạnh tay cho đầu tư và giải ngân vốn thừa công suất lớn trong quá khứ cũng như nguồn thu bị đe dọa do doanh nghiệp và người dân khó để vượt qua tình trạng trì trệ của nền kinh tế một cách nhanh chóng.
Q. Nguyễn
Theo TTVN
|
Ngày đăng :
06/07/2012 - 9:32 AM
Ngày 5-7, Bộ Tài chính tổ chức họp báo thông tin về công tác điều hành ngân sách, giá, thuế… thời gian qua.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn, với giải pháp về miễn thuế thu nhập cá nhân bậc 1 đang được triển khai, sẽ có khoảng 400.000 người được miễn thuế với tổng số tiền ước tính khoảng 3.000 tỷ đồng trong vòng 6 tháng cuối năm.
Đối với doanh nghiệp, qua 2 tháng thực hiện giảm, giãn thuế đã có hơn 75.000 kê khai thuế giữ lại số tiền khoảng 3.800 tỷ đồng. Theo tính toán, tổng số thuế được miễn, giảm (gồm cả thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thuế thu nhập cá nhân) khoảng 36.000 tỷ đồng.
Liên quan đến tác động của tăng giá điện đến chỉ số giá tiêu dùng, đại diện Cục Quản lý giá cho biết, tính toán của cơ quan này tác động từ nay đến hết năm sẽ là 0,369%. Về xăng dầu, theo Bộ Tài chính, doanh nghiệp quay trở lại chủ động định giá xăng dầu theo Nghị định 84 nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước (trường hợp tăng phải thông báo cơ quan quản lý) do xăng dầu là mặt hàng quan trọng nên buộc phải có cơ chế giám sát.
Thủ tướng Chính phủ vừa giao Bộ NN-PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công thương và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong tháng 7-2012 nghiên cứu, đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ các chính sách hỗ trợ về tín dụng, tài chính, thị trường (kéo dài thời gian cho vay, điều chỉnh điều kiện vay, cho vay thêm; miễn, giảm thuế, phí...) đối với một số mặt hàng thủy sản (cá tra, tôm...) và sản phẩm chăn nuôi giúp các trang trại, hộ sản xuất vượt qua khó khăn hiện nay, tiếp tục duy trì, phát triển sản xuất, đảm bảo nguồn cung sản phẩm cho thị trường.
Theo Hà My – Phan Thảo
SGGP
|
Ngày đăng :
05/07/2012 - 9:09 AM
Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ Tài chính chủ trì nghiên cứu, sửa đổi Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để Chính phủ trình Quốc hội vào năm 2013.
Văn phòng Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch thành lập các Đoàn công tác kiểm tra, giám sát liên ngành để kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng.
Đó là ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng yêu cầu các cơ quan, Bộ, ngành có liên quan thực hiện ngay một số công việc trước mắt từ nay đến cuối năm 2012.
Phó Thủ tướng cũng giao Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng giúp Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đôn đốc các cơ quan liên quan khẩn trương xử lý dứt điểm các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài mà Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đang theo dõi, chỉ đạo theo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tại phiên họp thứ 17.
Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng để Chính phủ kịp thời trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội Khóa XIII (tháng 10/2012).
Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ Tài chính chủ trì nghiên cứu, sửa đổi Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để Chính phủ trình Quốc hội vào năm 2013.
Phó Thủ tướng nêu rõ, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là công tác thường xuyên, liên tục, yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung nỗ lực, triển khai thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đạt kết quả tốt.
Trong khi chờ bổ sung, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TW, các Bộ, ngành, địa phương phải bảo đảm thực hiện liên tục, thường xuyên công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, lãng phí hoạt động tích cực, nêu cao tinh thần trách nhiệm và theo chức năng, nhiệm vụ được pháp luật giao.
Phó Thủ tướng cũng lưu ý, để triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW, giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, trong đó có nội dung kế hoạch của giai đoạn hai (2012-2016) thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, sớm trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Theo Phương Hiển
Chinhphu.vn
|