Điện sao tăng giá lúc này

Ngày đăng : 12/07/2012 - 8:51 AM

 

 

Khi nói về tác động của việc tăng giá điện, bà Nguyễn Thị Minh, Thứ trưởng Bộ Tài chính, cho rằng, sẽ không có tác động nhiều, vì doanh nghiệp nào sử dụng nhiều điện nhất, điện cũng chỉ chiếm 10% giá thành.

 

Nếu tiết kiệm điện, giảm chi phí sản xuất, doanh nghiệp sẽ bù đắp được tác động từ giá điện.

 

Tuy nhiên, cách lý giải này, theo nhiều ông chủ doanh nghiệp, chỉ hợp lý trong bối cảnh thị trường đang diễn biến tích cực. Còn như hiện nay, doanh nghiệp đã có quá nhiều cái khó do tác động lạm phát liên miên, lãi suất cao, khó tiếp cận vốn, hàng hóa tồn kho lớn.

 

Hãy lấy một ví dụ: một doanh nghiệp sản xuất có số thuế giá trị gia tăng phải nộp mỗi tháng là 2 tỉ đồng. Nhờ chính sách giãn thuế giá trị gia tăng của Chính phủ, doanh nghiệp dùng 2 tỉ đồng tiền thuế chậm nộp ấy để bổ sung vốn lưu động và không phải vay 2 tỉ đồng từ ngân hàng nữa. Khi đó, mỗi tháng doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được 25 triệu đồng tiền lẽ ra phải trả lãi ngân hàng (nếu lãi suất là 15%/năm).

 

Cũng doanh nghiệp này, trước đây mỗi tháng dùng hết 2 tỉ đồng tiền điện. Với mức tăng giá điện 5%, mỗi tháng họ phải chi thêm 100 triệu đồng. Như vậy, trong khi giải pháp giãn thuế giúp doanh nghiệp tiết kiệm được 25 triệu đồng/tháng, thì giá điện tăng khiến họ tốn thêm 100 triệu đồng/tháng. Tất nhiên đây chỉ là một so sánh tương đối, vì mỗi doanh nghiệp có lượng điện sử dụng khác nhau.

 

Tưởng có lý mà lại không

 

Chủ tịch Hội đồng quản trị một công ty thép ở Vĩnh Phúc (không muốn nêu tên) bức xúc với việc tăng giá điện lúc này. “Các mặt hàng điện, than, xăng, dầu là đầu vào quan trọng của sản xuất, nên cần đồng điệu theo chủ trương của Chính phủ. Nếu không, hầu hết con số khác đều giảm để cứu doanh nghiệp, nhưng chỉ cần một hai con số đi ngược lại thì không tạo hiệu ứng tâm lý tốt”, ông nói.

 

Ông Nguyễn Thành Lưu, Giám đốc Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Sản phẩm xanh Việt Nam, cũng lo âu khi sản phẩm không bán được mà giá điện lại tăng. “Nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, thu hẹp sản xuất. Việc ngành điện thua lỗ đã xảy ra từ lâu nay, nếu chờ thêm một thời gian nữa hãy tăng giá bù lỗ cho ngành điện cũng không sao”, ông Lưu nói.

 

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng thời điểm này tăng giá điện là rất không hợp lý. Nghị quyết 13 đã đưa ra các giải pháp miễn giảm, giãn thuế, Ngân hàng Nhà nước cũng đã giảm lãi suất. Nhưng doanh nghiệp chưa kịp hưởng lợi, vì các chính sách này có độ trễ, thì đã phải chịu tác động ngay lập tức từ tăng giá điện. Bà Lan cũng nhấn mạnh đến việc người tiêu dùng đã chịu tác động của lạm phát cao, nên sức mua đã xuống thấp.

 

Nếu nhìn vào chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng qua chỉ tăng 2,52%, có thể việc tăng giá điện được xem là hợp lý. Thế nhưng, tưởng vậy mà lại không phải vậy. Tiến sĩ Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng việc giảm chỉ số giá cả liên tục từ tháng 3 đến hết tháng 6 là do tổng cầu của nền kinh tế giảm, chứ không phải là do giảm chi phí.

 

Ông Lưu cũng đồng tình với quan điểm lạm phát giảm do cầu giảm chứ không hẳn do giảm giá. Ông cho biết, hiện nay, doanh số bán hàng quá thấp, nên để đủ chi phí điện, xăng, tiền thuê mặt bằng, doanh nghiệp không thể giảm giá bán hàng. Đó là lý do tại sao chỉ số giá tiêu dùng giảm mà không thấy giá hàng hóa giảm trên thực tế.

 

Giá điện sẽ còn tăng

 

Ông Lưu cho rằng vẫn còn dư địa để không tăng giá điện, miễn là kiểm soát được giá thành, chống được thất thoát, chứ không thể cứ nói lỗ là tăng giá. Điều cốt lõi theo ông Lưu là cần giải quyết bài toán cạnh tranh của ngành điện giống như ngành viễn thông trước đây. “Chúng ta đã giải quyết bài toán viễn thông rất giỏi. Người dân phải cảm ơn ông Mai Liêm Trực và ông Đỗ Trung Tá. Vậy tại sao điện và xăng dầu cứ nhùng nhằng độc quyền. Vấn đề là do Bộ trưởng. Không phải là khó mà là có muốn làm hay không”, ông nhận xét.

 

Một thông tin rất đáng chú ý là trong cơ cấu tính giá thành điện, thì tổn thất điện năng vẫn lên đến 10%. Đây là mức khá cao, mà nếu tiết giảm, sẽ giảm đáng kể chi phí giá thành điện.

 

Nhưng đó chỉ là cách suy luận của người tiêu dùng. Còn thực tế, có vẻ như giá điện sẽ vẫn tăng. Bởi mới đây, lãnh đạo Bộ Công Thương đã cảnh báo trước thời điểm tăng giá điện, đó là từ ngày 1.7 bắt đầu thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh, nhưng có nguy cơ giá điện sẽ tăng. Lý do là các doanh nghiệp phát điện đều có xu hướng tăng giá chào bán điện, vì họ khó khăn về tài chính.

 

Bình luận về cảnh báo này, bà Phạm Chi Lan cho rằng cơ quan Nhà nước không nên nói giúp doanh nghiệp điện là họ khó khăn tài chính. Vì khó khăn tài chính là khó khăn chung của nhiều doanh nghiệp hiện nay. “Nếu chỉ ngành điện được tăng giá do khó khăn tài chính thì các doanh nghiệp khác có khó khăn tài chính, ai sẽ là người gánh chịu. Chẳng lẽ các ngành đều đổ dồn giá tăng lên xã hội”, bà Lan nói.

 

Bên cạnh đó, bà Lan cho rằng thị trường điện cạnh tranh như hiện nay mang tính nửa vời. Bởi lẽ, cạnh tranh chỉ có ở khâu phát điện và làm gì có chuyện thị trường điện cạnh tranh khi vẫn chỉ có một người mua là Tập đoàn Điện lực. Từ góc nhìn này, bà Lan cho rằng chủ trương kéo dài đến năm 2022 mới có thị trường điện cạnh tranh để duy trì độc quyền chỉ làm lợi cho Tập đoàn Điện lực.

Theo Vũ Dũng

Nhipcaudautu

 

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Kinh tế Việt Nam sẽ tốt hơn trong 12 tháng tới

Ngày đăng : 10/07/2012 - 8:51 AM

 

 

Có 71,43% doanh nghiệp được hỏi tin rằng trong 12 tháng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ tốt hơn, chỉ có 3,09% lo lắng về tương lai của nền kinh tế trong năm 2012.

 

Công ty Dịch vụ Thông tin Tài Chính WVB Việt Nam (WVB FISL) vừa công bố kết quả cuộc khảo sát Chỉ số niềm tin kinh doanh WVB cho Quý II năm 2012.

 

Đây là cuộc khảo sát được tiến hành hàng Quý do công ty WVB Việt Nam tổ chức. Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp đứng đầu cả nước về thương hiệu, tổng tài sản, tổng doanh thu và số lượng nhân viên. Cuộc khảo sát kéo dài từ ngày 15/6 đến tuần đầu tháng 7/2012 đã thu hút sự tham gia của 154 doanh nghiệp thuộc 11 lĩnh vực ngành nghề chủ chốt của Việt Nam. Hơn một nửa trong số đó là các doanh nghiệp đại diện cho khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.

 

Theo kết quả điều tra, Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) Quý II năm 2012 tăng 7 điểm so với Quý I năm 2012 (113 điểm) và tăng 20 điểm so với lần thực hiện đầu tiên vào Quý III năm 2008 (100 điểm).

 

Chỉ số BCI Quý II năm 2012 tăng nhẹ so với Quý I năm 2012 cho thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn lạc quan nhiều hơn số doanh nghiệp bi quan và phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng hiện tại nền kinh tế Việt đã tốt hơn 12 tháng trước và trong thời gian tới có triển vọng phát triển tốt hơn nữa.

 

Kết quả điều tra 6 cấu phần xây dựng nên Chỉ số niềm tin kinh doanh Quý II năm 2012 có những điểm nổi bật sau:

 

Về tình hình kinh tế chung của Việt Nam hiện nay: Có 44,16% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng nền kinh tế chung của Việt Nam hiện nay đã tốt hơn so với 12 tháng trước, 35,71% cho rằng điều kiện kinh tế của Việt Nam vẫn giữ nguyên và 20.13% cho rằng điều kiện kinh tế có phần kém hơn so với 12 tháng trước.

 

Dự đoán tình hình kinh tế Việt Nam 12 tháng tiếp theo: 71,43% doanh nghiệp tin rằng trong vòng 12 tháng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ tốt hơn. Chỉ có 3,09% lo lắng về tương lai của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012.

 

Kế hoạch sử dụng nhân viên: Có 35,06% doanh nghiệp dự tính sẽ tăng thêm nguồn nhân lực, 50,65% doanh nghiệp dự tính sẽ giữ nguyên và 14,29% doanh nghiệp giảm số nhân lực trong thời gian tới.

 

Kế hoạch đầu tư cho tài sản cố định: 41,56% doanh nghiệp tham gia khảo sát dự định giữ nguyên chi phí đầu tư cho tài sản cố định; 47,40% doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư thêm và 11,04% doanh nghiệp có kế hoạch giảm chi phí đầu tư vào tài sản cố định trong 12 tháng tới.

 

Niềm tin vào sự tăng trưởng doanh thu: 72,73% doanh nghiệp tham gia khảo sát tự tin rằng doanh thu của doanh nghiệp sẽ tăng, 19,48% doanh nghiệp cho rằng doanh thu của mình sẽ giữ nguyên và chỉ có 7,79% doanh nghiệp lo ngại về con số doanh thu của mình trong 12 tháng tới.

 

Niềm tin vào sự tăng trưởng lợi nhuận: 70,78% doanh nghiệp tin rằng lợi nhuận sẽ tăng lên trong năm tới. 24,68% doanh nghiệp cho rằng lợi nhuận sẽ giữ nguyên và 4,55% doanh nghiệp lo ngại về sự suy giảm lợi nhuận trong 12 tháng tới.

 

Thủ tục về tín dụng và thuế còn nhiều rắc rối

 

Nhóm khảo sát doanh nghiệp của WVB FISL cũng khảo sát về những vấn đề như khó khăn trong nước mà các DN đang gặp phải. Đa số câu trả lời đều cho rằng thủ tục cho vay tín dụng và chính sách thuế là khó khăn lớn nhất mà hầu hết các DN đều vướng mắc, bên cạnh đó chất lượng hàng giả, hàng nhái cũng là vấn đề mà các DN quan tâm vì nó làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sản phẩm cũng như uy tín của các DN.

 

Phần lớn các DN đều cho rằng giải pháp tốt nhất để tháo gỡ khó khăn cho các DN trong bối cảnh kinh tế hiện nay là phải kích cầu để tăng sức tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ (chiếm 30.12%), các ngân hàng phải hạ lãi suất cho vay, tái cơ cấu nợ cũng như hỗ trợ DN tiếp cận vốn. ðể tiếp cận được nguồn vốn một cách dễ dàng thì phần lớn các DN nghiệp được phỏng vấn đều cho rằng NHNN nên tiếp tục giảm lãi suất cho vay, điều kiện cho vay mở, cải tiến quy trình thủ tục cho vay vốn…

 

Câu hỏi về gói giải pháp hỗ trợ DN do Bộ Tài Chính đề xuất có tác động tài chính ước tính khoảng 29.000 tỷ đồng (giãn thuế, miễn giảm thuế, hoãn thu phí,,,,) có cải thiện được đáng kể tình hình khó khăn chung hiện nay không? Có đến 68.83% quan điểm chung của các chủ DN đều cho là có.

 

Cũng theo đó, giá xăng dầu trong nước gần đây liên tục được điều chỉnh tăng giảm, và hơn nửa các DN được phỏng vấn đều cho rằng giá xăng dầu trong nước cũng vẫn sẽ điều chỉnh giảm tiếp trong vòng 3 tháng tới. Nhận định về những yếu tố sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong vòng 6 tháng cuối năm thì quan điểm chung của các chủ DN đều là lạm phát, bất ổn kinh tế, khó khăn trong huy động vốn nhu cầu tiêu dùng đang trên đà suy giảm là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động SXKD của DN.

 

Tuy nhiên, BCI tăng điểm nhẹ trong quý này cho thấy niềm tin của các chủ doanh nghiệp nói riêng và giới kinh doanh nói chung cũng đã thiện rõ rệt sau sự giảm điểm quý trước./.

 

                                                                                                                              Theo Vũ Hạnh

                                                                                                                                  VOV online

 

 


Đầu tư công kém hiệu quả - Gánh nặng tài khóa tương lai ra sao?

Ngày đăng : 09/07/2012 - 9:43 AM

 

 

Giai đoạn 2006 – 2009 Việt Nam đã huy động một lượng lớn vốn TPCP phục vụ đầu tư, nhưng có chênh lệch dương khá lớn giữa số huy động và giải ngân.

Trong tuần qua, Bộ Tài Chính Việt Nam đã cảnh báo về khả năng ngân sách nhà nước sẽ thất thu do tình trạng trì trệ của nền kinh tế đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ tiếp tục đưa ra thông điệp sẽ giải ngân khoảng 22.000 tỷ đồng/tháng vốn ngân sách phục vụ  đầu tư trong 6 tháng cuối năm 2012. Rõ ràng, xét về mặt bản chất có thể xem Việt Nam đi theo hướng chính sách tài khóa nghịch chu kỳ - điều thường thấy ở các quốc gia phát triển hay, các nước có tài chính quốc gia lành mạnh. 

Nhưng với  tình trạng dàn trải, phân tán, hiệu quả thấp, tốn kém, lãng phí, thiếu đồng bộ trong đầu tư công và thâm hụt ngân sách ở mức cao  những năm vừa qua, đặt ra quan ngại về khả năng tái lạm phát, bất ổn vĩ mô trong thời gian tới. Dù cho nhiều thành viên Chính phủ khẳng định rằng, việc giải ngân 22.000 tỷ đồng/tháng hoàn toàn nằm trong kế hoạch mà Chính phủ đã dự liệu từ trước, không lo lạm phát, thì hoài nghi khác về khả năng bất ổn vĩ mô đến từ thâm hụt ngân sách, nợ công cao và vốn đầu tư không mang lại giá trị đóng góp thu cho tương lai là khó tránh khỏi. 

Nợ công của Việt Nam hiện đang là bao nhiêu? 

Rõ ràng đây là câu hỏi khó trả lời. Bởi trong khi các tổ chức quốc tế uy tín cho rằng nợ công Việt Nam năm 2010 đang ở mức khoảng 51% GDP, trong khi đó Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết nợ công ở mức 57,3% GDP, nợ Chính phủ 47,5% GDP... 

Năm

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Nợ công/GDP (%)

40,4%

42,3%

43,7%

45,4%

48,9%

48,9%

51%

51,7%

Nợ nước ngoài khu vực công/GDP

N/a

29,9%

27,8%

26,7%

28,2%

25,1%

29,3%

31,1%

 

 

 

Nợ công Việt Nam qua các năm. Nguồn EIU


Tuy nhiên, 51% hay 57,3% đều phản ánh một tình trạng chung đó là nợ công Việt Nam đang tăng khá nhanh. Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia thì năm 2007 nợ công Việt Nam ở mức 33%GDP, đến 2010 nợ công ở mức khoảng 56,7% GDP. 

Liệu việc chi mạnh tay cho đầu tư công trong quá khứ sẽ còn ảnh hưởng như thế nào đến tương lai? 

Theo báo cáo quyết toán hàng năm của Bộ Tài chính, chi đầu tư phát triển nếu chỉ tính trong NSNN sẽ không có vấn đề. Vấn đề là vốn đầu tư được sử dụng như thế nào, quản lý và triển khai dự án. Bởi, thu từ thuế, phí, lệ phí hàng năm lớn hơn chi thường xuyên và tạo ra khoản thặng dư lớn tài trợ cho chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên tăng lên hàng năm. 

Tuy nhiên, ngân sách nhà nước vẫn phải chi trả cho các khoản chi đầu tư nguồn trái phiếu Chính phủ. Vì vậy, nếu tính cả khoản chi này, ngân sách đã dành tỷ trọng tương đối lớn cho đầu tư. Bình quân giai đoạn 2003 – 2010 chi đầu tư khoảng 10,91% GDP trong đó bình quân chi đầu tư giai đoạn 2003 – 2006 là 10,1% GDP; giai đoạn 2007 – 2010 là 11,72% GDP. 

Huy động TPCP phục vụ đầu tư phát triển xã hội là cần thiết. Nhưng có chênh lệch lớn giữa số vốn được huy động và giải ngân vốn đầu tư hàng năm. Dù cho rằng huy động vốn qua phát hành TPCP trong nước không làm tăng gánh nặng nợ nần cho các thế hệ tương lai, việc bố trí, giải ngân vốn thừa công suất lớn sẽ gây lãng phí, gánh nặng ngân sách do trả lãi TPCP cũng tăng lên.

 

 

 

Nguồn: Số liệu Bộ Tài Chính, Kiểm toán Nhà nước


Bên cạnh đó, từ năm 2006 huy động vốn TPCP của Việt Nam gặp thuận lợi hơn đã đẩy số vốn huy động quy đổi sang đồng Việt Nam tăng khá mạnh; TPCP huy động chủ yếu kỳ hạn 5 năm và 10 năm. Kỳ trả nợ gốc của các khoản vay giai đoạn 2006 bắt đầu từ năm 2011. Điều này cho thấy, tiềm ẩn nguy cơ tăng thâm hụt ngân sách từ năm 2011 do chi trả nợ gốc tăng, và nợ Chính phủ vẫn duy trì ở mức cao.

Như vậy, với bối cảnh hiện nay, giải ngân vốn phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản đối với Chính phủ là hết sức thận trọng nhằm đảm bảo vốn đầu tư vào các dự án không thâm dụng vốn, sẽ mạng lại nguồn thu trong tương lai gần. Bởi nguy cơ thâm hụt ngân sách cao do chi trả nợ gốc đến từ việc chi mạnh tay cho đầu tư và giải ngân vốn thừa công suất lớn trong quá khứ cũng như nguồn thu bị đe dọa do doanh nghiệp và người dân khó để vượt qua tình trạng trì trệ của nền kinh tế  một cách nhanh chóng.  

 

 

 

Q. Nguyễn

Theo TTVN

 


Hiệu quả tích cực từ việc miễn, giảm thuế: 36.000 tỷ đồng hỗ trợ DN, cá nhân

Ngày đăng : 06/07/2012 - 9:32 AM

 

 

Ngày 5-7, Bộ Tài chính tổ chức họp báo thông tin về công tác điều hành ngân sách, giá, thuế… thời gian qua.

 

Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn, với giải pháp về miễn thuế thu nhập cá nhân bậc 1 đang được triển khai, sẽ có khoảng 400.000 người được miễn thuế với tổng số tiền ước tính khoảng 3.000 tỷ đồng trong vòng 6 tháng cuối năm. 

Đối với doanh nghiệp, qua 2 tháng thực hiện giảm, giãn thuế đã có hơn 75.000 kê khai thuế giữ lại số tiền khoảng 3.800 tỷ đồng. Theo tính toán, tổng số thuế được miễn, giảm (gồm cả thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thuế thu nhập cá nhân) khoảng 36.000 tỷ đồng.

Liên quan đến tác động của tăng giá điện đến chỉ số giá tiêu dùng, đại diện Cục Quản lý giá cho biết, tính toán của cơ quan này tác động từ nay đến hết năm sẽ là 0,369%. Về xăng dầu, theo Bộ Tài chính, doanh nghiệp quay trở lại chủ động định giá xăng dầu theo Nghị định 84 nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước (trường hợp tăng phải thông báo cơ quan quản lý) do xăng dầu là mặt hàng quan trọng nên buộc phải có cơ chế giám sát. 

Thủ tướng Chính phủ vừa giao Bộ NN-PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công thương và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong tháng 7-2012 nghiên cứu, đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ các chính sách hỗ trợ về tín dụng, tài chính, thị trường (kéo dài thời gian cho vay, điều chỉnh điều kiện vay, cho vay thêm; miễn, giảm thuế, phí...) đối với một số mặt hàng thủy sản (cá tra, tôm...) và sản phẩm chăn nuôi giúp các trang trại, hộ sản xuất vượt qua khó khăn hiện nay, tiếp tục duy trì, phát triển sản xuất, đảm bảo nguồn cung sản phẩm cho thị trường.

Theo Hà My – Phan Thảo

SGGP

 

 


Lập Đoàn kiểm tra, giám sát việc điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng

Ngày đăng : 05/07/2012 - 9:09 AM

 

 

Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ Tài chính chủ trì nghiên cứu, sửa đổi Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để Chính phủ trình Quốc hội vào năm 2013.

 

Văn phòng Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch thành lập các Đoàn công tác kiểm tra, giám sát liên ngành để kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng.

 

Đó là ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng yêu cầu các cơ quan, Bộ, ngành có liên quan thực hiện ngay một số công việc trước mắt từ nay đến cuối năm 2012.

 

Phó Thủ tướng cũng giao Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng giúp Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đôn đốc các cơ quan liên quan khẩn trương xử lý dứt điểm các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài mà Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đang theo dõi, chỉ đạo theo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tại phiên họp thứ 17.

 

Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng để Chính phủ kịp thời trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội Khóa XIII (tháng 10/2012).

 

Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ Tài chính chủ trì nghiên cứu, sửa đổi Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để Chính phủ trình Quốc hội vào năm 2013.

 

Phó Thủ tướng nêu rõ, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là công tác thường xuyên, liên tục, yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung nỗ lực, triển khai thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đạt kết quả tốt.

 

Trong khi chờ bổ sung, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TW, các Bộ, ngành, địa phương phải bảo đảm thực hiện liên tục, thường xuyên công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, lãng phí hoạt động tích cực, nêu cao tinh thần trách nhiệm và theo chức năng, nhiệm vụ được pháp luật giao.

 

Phó Thủ tướng cũng lưu ý, để triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW, giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, trong đó có nội dung kế hoạch của giai đoạn hai (2012-2016) thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, sớm trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

 

Theo Phương Hiển

Chinhphu.vn

 

 


Thủ tướng: Chưa điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng từ nay tới cuối năm

Ngày đăng : 04/07/2012 - 10:29 AM

 

 

Trong hai ngày 2-3/7, tại Trụ sở Chính phủ, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ đã họp Phiên họp thường kỳ tháng 6 trực tuyến với lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

 

Đánh giá công tác chỉ đạo điều hành tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và những giải pháp những tháng cuối năm.

Một trong những trọng tâm tại Phiên họp là Chính phủ tái khẳng định, trong những tháng cuối năm 2012, quan điểm nhất quán là vẫn kiên định các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm, chưa thay đổi, điều chỉnh bất cứ mục tiêu nào.

Theo đó, tiếp tục dành ưu tiên cho kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; việc ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ cho năm 2012 mà còn cho cả các năm tiếp theo, đây cũng là nền tảng để duy trì tăng trưởng và phát triển bền vững.

Kinh tế-xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực

Thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 và 6 tháng năm 2012, các thành viên Chính phủ nhận định, tình hình kinh tế-xã hội tiếp tục có những chuyển biến tích cực, đúng hướng và đạt được những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Theo đó, về giá cả, lạm pháp, nhờ thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ các biện pháp kiềm chế lạm phát như thắt chặt tiền tệ, quản lý chặt chẽ chi tiêu và giảm bội chi ngân sách nhà nước, cắt giảm vốn đầu tư và đổi mới nâng cao hiệu quả đầu tư công… nên tốc độ tăng giá đã có xu hướng giảm ngay từ tháng 7/2011 và liên tục giảm trong 6 tháng đầu năm 2012.

So với tháng 12/2011, CPI tháng 6/2012 tăng 2,52% so với tháng 12/ 2011 và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2011. Đây là cơ sở để điều hành lạm phát mục tiêu năm nay ở mức 7-8% và tạo dư địa cho việc thực hiện chính sách tài khóa thúc đẩy tăng trưởng, chính sách tiền tệ nhằm giảm chi phí lãi vay vốn trong những tháng còn lại của năm.

Nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm giảm mặt bằng lãi suất như giảm lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, liên ngân hàng, trần lãi suất tiền gửi. Từ đầu năm đến nay, sau 3 lần điều chỉnh, trần lãi suất huy động đã giảm từ 14% xuống 9%. Hiện lãi suất cho vay các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ phổ biến ở mức 12%-13%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác 14%-17,5%... Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt trên 53,1 tỷ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ năm trước.

Về việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng, do phải tập trung thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2012 đạt thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm trước và thấp hơn so với kế hoạch đề ra, nhưng bắt đầu có xu hướng cải thiện hơn trong quý 2 (GDP quý 1/2012 đạt 4%, quý 2/2012 đạt khoảng 4,66%). Tính chung, tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 2012 ước đạt 4,38%.

Trong những tháng đầu năm, ngành công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do giá đầu vào và lãi suất ở mức cao, tiêu thụ chậm, tồn kho tăng cao… song nhờ thực hiện mạnh mẽ các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, sản xuất công nghiệp 4 tháng gần đây đã có chuyển biến và có chiều hướng cải thiện khá rõ nét, nhất là công nghiệp chế biến. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển tương đối ổn định, tăng 3,8%, trong đó nông nghiệp tăng 3%, lâm nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 5,8%...

Về thực hiện mục tiêu bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, các cấp, các ngành đã tích cực triển khai thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội như, hỗ trợ tín dụng cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số để ổn định chỗ ở, phát triển sản xuất; hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo; trợ cấp xã hội (thực hiện trợ cấp xã hội thường xuyên cho gần 2,3 triệu người thuộc nhóm đối tượng bảo trợ xã hội); đào tạo nghề cho lao động nông thôn; điều chỉnh mức lương tối thiểu… Ngoài ra, công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông tiếp tục có chuyển biến tích cực. So với cùng kỳ, trong 6 tháng đầu năm 2012, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,6%, số người chết giảm 16,7% và số người bị thương giảm 21,6%.

Bên cạnh khẳng định những kết quả đạt được, các thành viên Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận, tình hình kinh tế-xã hội vẫn tồn tại những khó khăn, thách thức, trong đó nổi lên là tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng do lãi suất còn cao và không đáp ứng được các điều kiện vay; chỉ số tồn kho vẫn ở mức cao; số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng…

Ổn định kinh tế vĩ mô, nền tảng để duy trì tăng trưởng và phát triển bền vững

Nhấn mạnh giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô được coi là yếu tố quyết định, mang tính nền tảng, nhiều thành viên Chính phủ cho rằng, bên cạnh việc tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, nhưng phải nhất quán trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thực hiện tái cấu trúc kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh để bảo đảm thực hiện đạt mức cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã đề ra.

Cho biết những khó khăn, thách thức mà ngành nông nghiệp đang phải đối mặt, trong đó có khó khăn về thị trường tiêu thụ nhiều mặt hàng nông sản như lúa gạo , cao su, cá tra… cùng với đó, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại lớn cho người dân, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát kiến nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ nông dân thông qua tái cơ cấu nợ, cho vay mới; có chính sách hợp lý để hỗ trợ các hộ nông dân nuôi tôm bị thiệt hại do dịch bệnh… đồng thời cũng cho rằng các địa phương cần quyết liệt hơn nữa trong thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ rừng…

Khẳng định chỉ số tồn kho có xu hướng giảm dần, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho rằng cần tiếp tục thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp để giải quyết hàng tồn kho qua xúc tiến thương mại ở cả thị trường ngoài nước và thị trường nội địa. 

Cùng với đó là tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích sản xuất đối với những lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ, các hoạt động dịch vụ, du lịch chất lượng cao. Thực hiện các biện pháp để duy trì đà tăng trưởng cao của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, tạo nhiều việc làm như lúa gạo, hải sản, dệt may, giầy dép. Theo dõi sát trị trường ngoại hối, bảo đảm tỷ giá ở mức hợp lý, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.

Bên cạnh đó, các thành viên Chính phủ cũng nhấn mạnh quan điểm cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng như tăng cường hoạt động bảo lãnh khoản vay; bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; dành ưu tiên tín dụng đối với doanh nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng nhiều lao động.

Chung sức, chung lòng, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra

Lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều khẳng định sự quyết tâm cao độ trong việc bám sát, triển khai thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhằm cùng cả nước thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra trong năm 2012 và các năm tiếp theo, nhất là mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giữ tăng trưởng ở mức hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội.

Lãnh đạo các địa phương nhận định, trong những tháng gần đây, nền kinh tế đã có những dấu hiệu hồi phục; các chỉ số tăng trưởng sản xuất, xuất nhập khẩu, dịch vụ, tiêu dùng đã đạt mức tăng khá; số doanh nghiệp ngừng hoạt động đã giảm hẳn, cùng với đó nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu khôi phục sản xuất; công tác bình ổn giá, đưa hàng hóa về nông thôn, hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế được thực hiện tốt, mang lại hiệu quả tích cực trong kiềm chế lạm phát, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh.

Lãnh đạo các tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Lai Châu, Nghệ An, Phú Yên, Gia Lai… đã nêu những kiến nghị, đề xuất của địa phương như đề nghị Chính phủ tiếp tục có sự chỉ đạo sát sao hơn nữa đối với các địa phương trong tháo gỡ, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; chỉ đạo thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế nhưng không làm tràn lan, làm ảnh hưởng tới mục tiêu kiềm chế lạm phát; xem xét việc tạm ứng vốn ngân sách 2013 cho các dự án, công trình cấp bách, có khả hoàn thành trong năm 2012 để phục vụ các mục tiêu tăng trưởng và phát triển; kiểm soát, giải quyết tốt vấn đề về nợ xấu ngân hàng; sớm điều chỉnh các tiêu chí về nông thôn mới theo hướng mềm dẻo và linh hoạt hơn cho phù hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể của từng địa phương; hỗ trợ địa phương thực hiện công tác di dân, tái định cư khi xây dựng các dự án thủy điện.

Đồng thời, đề nghị Chính phủ sớm ban hành cơ chế khả thi để các địa phương thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tăng cường nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ ngư dân bám biển và làm giàu từ biển; kiểm soát tốt trị trường ngoại hối, bảo đảm tỷ giá ở mức hợp lý.

Kiên định các mục tiêu đã đề ra

Phát biểu kết luận Phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, với nỗ lực chung của cả nước, 6 tháng đầu năm 2012, kinh tế-xã hội của đất nước tiếp tục có chuyển biến tích cực, đúng hướng, đúng mục tiêu đề ra. Những kết quả đạt được khá toàn diện trên các lĩnh vực đặc biệt là trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; tái cơ cấu kinh tế; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm cho thấy triển vọng 6 tháng cuối năm sẽ có tăng trưởng, chuyển biến tốt hơn.

Sau khi phân tích, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện những tháng đầu năm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, trong những tháng cuối năm 2012 quan điểm nhất quán là vẫn kiên định các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm, chưa thay đổi, điều chỉnh bất cứ mục tiêu nào. Theo đó, tiếp tục dành ưu tiên cho kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; việc ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ cho năm 2012 mà còn cho cả các năm tiếp theo, đây cũng là nền tảng để duy trì tăng trưởng và phát triển bền vững. Đồng thời tập trung duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý (khoảng 5,2%-5,7%), duy trì tăng trưởng hợp lý nhưng phải đạt yêu cầu không gây bất ổn kinh tế vĩ mô, làm lạm phát cao trở lại ; không vì tăng trưởng mà để lạm phát cao cho những năm tiếp theo.

Trên tinh thần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, phù hợp với các cân đối vĩ mô; đẩy nhanh việc giảm lãi suất cho vay theo chiều hướng giảm dần của chỉ số giá tiêu dùng; điều hành ổn định tỷ giá ; đánh giá thực trạng tình hình thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng, cũng như các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng của toàn hệ thống nhằm kịp thời đề xuất các giải pháp điều hành tín dụng hợp lý. Chủ động, linh hoạt trong xử lý nợ xấu; khẩn trương cơ cấu lại nợ, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại yếu kém; điều hành lãi suất theo lạm phát mục tiêu (7-8%); nhanh chóng khơi thông dòng vốn để các doanh nghiệp dễ tiếp cận.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng yêu cầu các bộ, ngành chức năng tập trung tháo gỡ, hỗ trợ cho sản xuất, trong đó có tăng tín dụng, giải ngân cho hết số vốn đã bố trí . Ưu tiên tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; sản xuất hàng xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; thực hành tiết kiệm triệt để, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa. 

Đồng thời, nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước; kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu qua các hàng rào kỹ thuật, nhất là kiểm soát, hạn chế nhập khẩu các sản phẩm nông sản. Xây dựng cơ chế chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mặt khác kiểm soát chặt chẽ lượng hàng nhập khẩu; thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo Bộ Tài c hính tính toán các khả năng về thu chi ngân sách, không để đảo lộn thu chi ngân sách; kiểm soát kỹ lại nguồn thu. Giữ mức bội chi ngân sách không vượt quá chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua. Thực hiện chính sách tài khóa một các hợp lý, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với chính sách tiền tệ, tín dụng, nhằm tăng tổng cầu của nền kinh tế; t hực hiện các biện pháp hỗ trợ thuế đúng đối tượng ưu tiên nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh và kích thích tổng cầu phục vụ mục tiêu ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Khẩn trương rà soát, xử lý vốn đối ứng nhằm thúc đẩy nhanh các dự án ODA. Thu hút mạnh đầu tư nước ngoài vào các công trình, nhà máy sử dụng công nghệ cao. Tiếp tục chỉ đạo khẩn trương tính toán, tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn chương trình mục tiêu quốc gia... nhằm kích thích nhu cầu trong nước. Quan tâm hơn nữa tới công tác bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội; thực hiện quyết liệt, hiệu quả các biện pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động mất việc từ các doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, giải thể hoặc ngừng hoạt động; dành sự quan tâm thỏa đáng đến công tác chăm sóc sức khỏe y tế cho nhân dân; đưa bảo hiểm y tế trở thành một trong những chỉ tiêu phấn đấu trong phát triển kinh tế-xã hội vào năm 2013. 

Đồng thời tăng cường công tác giải quyết khiếu nại tố cao, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, gây tổn hại sức khỏe của người dân.

Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị các bộ, ngành, địa phương chủ động cung cấp, định hướng thông tin, đối thoại về các chủ trương, chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công. Các cơ quan thông tấn báo chí tiếp tục đề cao tinh thần trách nhiệm trước đất nước, trước nhân dân; thông tin trung thực, khách quan về mọi mặt kinh tế-xã hội nhằm định hướng dư luận xã hội, tạo đồng thuận, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra trong năm 2012 và các năm tiếp theo.

Tại phiên họp, Chính phủ đã nghe báo cáo, thảo luận về lộ trình và phương án giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng; phương án thoái vốn của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước theo cơ chế thị trường; dự thảo chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030; Tờ trình về dự án Luật Phòng chống khủng bố; Tờ trình về dự án Luật Phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai./.

Theo Thiện Thuật 
TTXVN

 

 


 

Tin mới cập nhật