Tăng trưởng tín dụng 2012: Làm sao tránh “kẻ ăn không hết”?

Ngày đăng : 16/12/2011 - 11:33 AM

Ngày mai (17/12), Ngân hàng Nhà nước sẽ tổ chức một cuộc họp với lãnh đạo các ngân hàng thương mại, và dự kiến sẽ bàn đến nội dung tăng trưởng tín dụng trong năm tới.

                    

 

Có lẽ như hội nghị ngành ngày 7/9 vừa qua, cuộc họp lần này sẽ hạn chế sự tham dự của báo chí.

Nhưng theo thông tin từ lãnh đạo một số ngân hàng thương mại, một nội dung trọng tâm dự kiến được bàn tới là định hướng tăng trưởng tín dụng năm tới, trong đó sẽ đặt ra câu chuyện của sự công bằng.

Trước hết, ở định hướng chung, như thông tin thời gian qua, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 dự kiến sẽ tiếp tục ở mức thấp, chỉ khoảng từ 15% - 17%. Cùng với đó, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán dự kiến cũng được kìm chỉ khoảng 14% - 16%.

Với những chỉ tiêu dự kiến trên, 2012 tiếp tục là năm chính sách tiền tệ được thắt chặt so với sự bùng nổ của tín dụng và tổng phương tiện thanh toán những năm trước đây. Dữ liệu lịch sử cho thấy đó là những mức chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng thấp nhất trong hơn một thập kỷ qua.

Có nhiều lý do để Ngân hàng Nhà nước xác định những giới hạn thấp đó, xuất phát từ yêu cầu kiềm chế lạm phát, từ những khuyến nghị chưa vội nới lỏng từ các tổ chức quốc tế mới đây… Và cũng có một cơ sở được tính đến là khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã tốt hơn những năm trước; tín dụng tăng trưởng rất thấp năm 2011 (chỉ khoảng 13%, nếu tính cả các khoản có bản chất tín dụng có thể là 15%) nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn bám sát chỉ tiêu đề ra.

Các chỉ tiêu định hướng đã được đưa ra thời gian qua. Vấn đề còn lại là sự “phân phối” chỉ tiêu đó trong hệ thống sẽ như thế nào, hay sự công bằng tín dụng cho các nhà băng sẽ triển khai ra sao?

Ngày 5/10/2011, Ngân hàng Nhà nước có bản tin đáng chú ý, trong đó hé mở khả năng các chỉ tiêu tăng trưởng sẽ được xác định phù hợp với trạng thái hoạt động của từng ngân hàng để tạo thuận lợi cho việc lập kế hoạch hoạt động của các tổ chức tín dụng, thay vì cào bằng giới hạn 20% như trong năm 2011 này.

Nay, thời điểm đã cận kề, các ngân hàng thương mại cần một bộ tiêu chí hoặc các cơ sở định hướng để hoạch định chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho riêng mình trong năm tới, phù với với nhu cầu và năng lực thực tế. Rộng hơn, hệ thống cần một cơ chế giới hạn tín dụng sát thực, phù hợp với sức khỏe của từng thành viên để tránh tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra” như năm 2011, dẫn đến sự hạn chế trong phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế.

Trao đổi với VnEconomy tối qua (15/12), tổng giám đốc một ngân hàng nhỏ đưa ra quan điểm rằng: việc Ngân hàng Nhà nước giới hạn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là cần thiết, vì nó cần phù hợp và cân đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác. Tuy nhiên, cũng cần phải tính toán để phù hợp với từng tổ chức tín dụng để tránh sự hạn chế trong cạnh tranh.

Theo tổng giám đốc này, một giới hạn cào bằng như năm 2011 dẫn tới sự mất công bằng giữa các thành viên. Năng lực vốn, năng lực bán hàng và năng lực quản trị rủi ro của mỗi ngân hàng là khác nhau, trong khi cùng chung một giới hạn như vậy dẫn đến vốn chỗ thừa, chỗ thiếu trong hệ thống. Hay cùng một cỡ áo, với cơ thể này là quá chật, với cơ thể khác là quá rộng. Thực tế hoạt động cho vay của các nhà băng năm nay đã phản ánh rõ điều đó.

Quan điểm mà ông đưa ra là Ngân hàng Nhà nước có thể mở giới hạn tín dụng ngay từ đầu năm, các ngân hàng sẽ cạnh tranh để cho vay tùy theo năng lực của mình. Khi có cạnh tranh sẽ có thêm lợi ích cho người vay vốn, cụ thể ở đây là cơ hội tiếp cận vốn và lãi suất. Ngân hàng Nhà nước sẽ bám sát thực tế để có sự can thiệp bằng kỹ thuật hoặc bằng hành chính nếu có dấu hiệu tăng trưởng nóng.

“Có thể với ngân hàng tôi khả năng cạnh tranh chưa mạnh, năng lực bán hàng chưa cao như nhiều thành viên khác, nhưng tôi ủng hộ hướng tạo cạnh tranh trong tín dụng như vậy. Cơ chế tín dụng ở đây không hẳn là lợi ích của mỗi thành viên trong hệ thống mà cần nhìn nhận ở lợi ích chung là phân bổ vốn hiệu quả cho nền kinh tế, có cạnh tranh để tạo lợi ích cho các doanh nghiệp vay vốn”, tổng giám đốc này nói.

Từ đầu năm 2011, sau khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra giới hạn tăng trưởng tín dụng dưới 20% áp cho tất cả các thành viên, nhiều ý kiến trong cuộc cũng đã kiến nghị được điều chỉnh. Những ý kiến đó cho rằng cần điều chỉnh để tạo sự công bằng giữa các thành viên, khi giữa họ có sự khác nhau về năng lực vốn, năng lực quản trị, hay về các hệ số an toàn trong hoạt động… Theo đó, có thể Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra các tiêu chí dựa trên cơ sở những chỉ số này để phân nhóm giới hạn cho năm 2012.

Bên cạnh đó, ông Lê Đào Nguyên, thành viên Hội đồng Quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), cho rằng việc xác định chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm tới cũng cần tính tới một số tiêu chí khác như thực tế hoạt động của mỗi ngân hàng. Trường hợp có lịch sử cho vay quá nhiều ở lĩnh vực bất động sản, đầu tư chứng khoán, hay thường có biểu hiện khó khăn thanh khoản… thì cũng cần tính toán giới hạn cho phù hợp.

Có thể sau cuộc họp ngày mai, Ngân hàng Nhà nước sẽ có thêm thông tin về vấn đề này. Và nếu có sự phân nhóm trong chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm tới thì nhà điều hành cần thông tin minh bạch các tiêu chí hoặc cơ sở xác định, tránh sự hoài nghi về “lợi ích nhóm”, cơ chế xin - cho có thể nảy sinh trong dư luận.

 

Theo VnEconomy.vn

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Bất thường lãi suất BIDV

Ngày đăng : 16/12/2011 - 11:24 AM

Liên tiếp giảm lãi suất cho vay, BIDV đang tạo hiện tượng trong hệ thống. Với nhiều doanh nghiệp, 14,5 - 15,5%/năm là những mức lãi suất “mơ ước”.

 

 

Chiều 16/12/2011, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tiếp tục thông báo giảm lãi suất cho vay VND xuống còn 14,5 - 15,5%/năm. Đây là lần thứ 5 liên tiếp trong vòng 4 tháng cuối năm 2011 ngân hàng này giảm lãi suất cho vay; là lần thứ hai liên tiếp chỉ trong vòng chưa đầy 1 tháng.

Dù chỉ áp cho một số nhóm đối tượng theo chủ trương Ngân hàng Nhà nước khuyến khích, nhưng loạt quyết định giảm lãi suất trên của BIDV là đáng chú ý. Với nhiều người trong cuộc hoặc đang quan tâm đến vấn đề lãi suất, có thể xem đó là một bất thường.

Lần giảm đầu tiên của “ông lớn” này trong năm nay là trong tháng 8/2011. Đây cũng là thời điểm hệ thống ngân hàng Việt Nam đón người đứng đầu mới, mà thông điệp đầu tiên tân Thống đốc đưa ra là giảm lãi suất cho vay xuống 17 - 19%/năm. Từ đó đến nay, nhiều ngân hàng thương mại đã lần lượt đưa ra các chương trình ưu đãi lãi suất theo chủ trương và định hướng của Ngân hàng Nhà nước.

Nhưng bất thường khi nhìn chung hầu hết các ngân hàng thương mại đều hạ lãi suất cho vay một cách thận trọng, chậm và chưa thể mạnh tay. Ngay tại thời điểm này, bốn tháng sau chủ trương trên, nhiều thành viên cho biết để hạ xuống 17 - 18%/năm cũng đã là một khó khăn. Và hiện chưa có thành viên thứ hai ngoài BIDV liên tiếp giảm và áp những mức thấp như vậy (15,5%/năm hiện được xem là tối đa).

Và cũng là “bất thường” khi suốt thời gian qua và hiện nay rất nhiều doanh nghiệp (kể cả trong nhóm ưu tiên) vẫn phải vay với lãi suất cao; hay nói cách khác, 14,5 - 15,5%/năm là những mức “mơ ước” so với thực tế.

Tất nhiên, chính sách ưu đãi trên BIDV chỉ dành riêng cho nhóm doanh nghiệp xuất khẩu, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa hay nhu cầu vay khắc phục hậu quả thiên tai... Nhưng đó cũng là một nhóm đối tượng lớn. Thực tế ngay tại BIDV, trong tổng số khoảng 270.000 tỷ đồng dư nợ hiện nay thì nhóm những đối tượng này chiếm tỷ trọng khoảng 40%.

Hay ở một tính toán tham khảo khác, chính sách lãi suất trên được áp cho các khoản vay ngắn hạn, nhưng chỉ riêng khoảng 3 tháng, lợi nhuận của BIDV sẽ bị chia sẻ khoảng 200 - 220 tỷ đồng so với cho vay lãi suất thông thường. Đó là một con số đáng chú ý trước thực tế lợi nhuận năm nay của ngân hàng này đang giảm; áp lực lợi nhuận sẽ rõ ràng hơn khi ở đây bắt đầu có khái niệm cổ đông sau kế hoạch IPO tuần tới. Về khía cạnh kinh doanh, là sòng phẳng khi cổ đông đặt ra vấn đề lợi ích, thực tế đã được đặt ra tại buổi roadshow vừa qua.

Câu hỏi đặt ra là vì sao BIDV liên tiếp giảm lãi suất và áp thấp như vậy (so với mặt bằng chung)? Liệu có mục đích phi kinh tế ở đây hay không?

Ở câu hỏi thứ nhất, ông Phạm Quang Tùng, Phó tổng giám đốc BIDV, giải thích rằng, trước hết đây là chính sách áp cho các khoản vay ngắn hạn, tập trung chia sẻ và hỗ trợ doanh nghiệp ở mùa cao điểm thanh toán cuối năm. Nhu cầu vốn ở thời điểm này như thường thấy là rất nóng, năm nay cũng vậy và đó là sự chia sẻ đúng thời điểm.

Ở câu hỏi thứ hai, dù không phân tích chi tiết, nhưng ông Tùng cũng giải thích rằng là nhằm tạo một sự tương tác có lợi cho chính ngân hàng. Giảm lãi suất lúc này, cũng như liên tiếp thời gian qua, được xem là một hướng cạnh tranh lôi kéo khách hàng về phía mình của BIDV. Họ là khách hàng vay vốn, nhưng cũng sẽ là mối tiền gửi tiềm năng trong tương lai.

Dù BIDV chưa trả lời câu hỏi từ phóng viên là dữ liệu lượng khách hàng tăng lên sau các chương trình hạ lãi suất như vậy để có thêm có một tham chiếu cho khả năng tiếp cận vốn thực tế, nhưng nhiều khả năng là có. Ngược lại, để tiếp cận được những mức lãi suất hấp dẫn đó có đơn giản hay không? Nếu nhiều nhu cầu dồn về BIDV theo lực hấp dẫn đó thì cơ chế giải ngân thế nào?

Dù sao, ngoài tỷ trọng 40% tổng dư nợ thuộc về nhóm ưu đãi, tăng trưởng tín dụng với 16,5% tính đến thời điểm này - cao hơn mức bình quân của ngành khoảng 13% - cũng là một dữ liệu để tham khảo cho các chương trình giảm lãi suất vừa qua.

Có một điểm khác đáng chú ý xoay quanh những câu hỏi trên. BIDV đang thực hiện tái cơ cấu, trong đó có trọng tâm là danh mục cho vay. Ngoài yêu cầu chung giảm bớt hoặc hạn chế tín dụng phi sản xuất, nhà băng này đang hướng tới cải tổ chính mình. Ông Tùng cho biết, định hướng đặt ra là tái cơ cấu tín dụng theo hướng không lệ thuộc vào những khách hàng quá lớn như trước đây, tăng tín dụng bán lẻ để có tỷ lệ lãi biên cao hơn.

Nếu như vậy, việc giảm bớt những khoản cho vay lớn sẽ đi cùng với cơ hội mở thêm cho các món vay nhỏ, đồng nghĩa với khả năng tiếp cận vốn từ chính sách trên là thực hơn về số lượng khách hàng.

Ở khía cạnh kinh tế, ngoài mục đích tạo thêm khách hàng, lãnh đạo BIDV cho biết các mức lãi suất thấp đó là đã được tính toán cụ thể và phù hợp. Cụ thể ở đây là tỷ lệ lãi biên.

Thông thường, lãi suất cho vay 14,5 - 15,5%/năm so với lãi suất huy động đầu vào 14%/năm thì chênh lệch chỉ từ 0,5 - 1,5%. Với các ngân hàng nói chung, chênh lệch dưới 2,5% được xem là bất thường và khó đỡ trước áp lực lợi nhuận và các chi phí liên quan. Điều đó có lẽ chỉ đúng với các ngân hàng cổ phần bình thường, với BIDV thì có một cơ sở khác.

Ông Tùng giải thích rằng, sở dĩ BIDV đưa ra được những mức lãi suất cho vay như vậy một phần có từ thuận lợi ở nguồn vốn đầu vào, khi có lượng tiền gửi thanh toán lớn không kỳ hạn lãi suất thấp. Mặt khác, giá vốn đầu vào là khác nhau, không phải tất cả đều 14%/năm.

Với thị trường, lâu nay BIDV vẫn được biết đến là một ngân hàng quốc doanh có nhiều lợi thế trong việc tiếp nhận các nguồn tiền gửi lớn, các nguồn ủy thác, các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư phát triển… với lãi suất thấp.

Với giá vốn đầu vào đó, cũng như cân đối ở các lĩnh vực cho vay khác, tỷ lệ lãi biên bình quân năm nay của “ông lớn” này vẫn đạt được khoảng 2,9%. Nhưng đây vẫn là một tỷ lệ thấp so với nhiều nhà băng khác, nhất là trong bối cảnh không còn được “vung tay” tăng tín dụng để thu theo số lượng như những năm trước.

Hiện khó khẳng định thực tế việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi trên như thế nào, nhưng ít nhiều đó là một sự chia sẻ cần thiết của BIDV đối với các doanh nghiệp vay vốn. Câu hỏi là liệu sau khi cổ phần hóa, trước áp lực lợi nhuận và lợi ích cổ đông, họ có tiếp tục đẩy mạnh được sự chia sẻ đó?

Trả lời câu hỏi này, ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch BIDV nói rằng: “Sẽ tiếp tục thực hiện nhưng sẽ tính toán phù hợp và không làm phương hại đến lợi ích cổ đông”.

 


Theo Minh Đức

 VnEconomy

 


Tín hiệu hạ lãi suất huy động

Ngày đăng : 16/12/2011 - 11:16 AM

Lãi suất cho vay giảm đựoc các ngân hàng tính toán dưa trên những kỳ vọng tương lai và thực lực tài chính của mình. Rất có thể, đây là tín hiệu chuẩn bị hạ lãi suất huy động.

                      

 

Sau ngân hàng đầu tiên hạ lãi suất cho vay, rất có thể một đợt hạ lãi suất sẽ được nhiều ngân hàng hưởng ứng. Lãi suất cho vay hạ liệu có phải là tín hiệu để chuẩn bị hạ lãi suất huy động vào đầu tháng 1/2012 tới.

Chiều ngày 15/12, BIDV đã công bố giảm lãi suất cho vay còn 14,5-15,5%/năm tài trợ hàng xuất khẩu, nông nghiệp và phát triển nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khắc phục bão lũ từ ngày 19/12/2011.

Theo đó, việc giảm lãi suất tập trung vào cho vay ngắn hạn với các khoản vay có kỳ hạn dưới 3 tháng áp dụng với 4 đối tượng ưu tiên gồm: ngành hàng xuất khẩu, phát triển ngành nông nghiệp & phát triển nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khắc phục hậu quả bão lũ. Mức lãi suất cho vay giảm xuống còn 14,5% đến 15,5%/năm (giảm trung bình 0,5%).

Cụ thể:, đối với cho vay tài trợ hàng xuất khẩu, mức lãi suất cho vay tối đa là 15,0%/năm; đối với cho vay ngành nông nghiệp & phát triển nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa tối đa là 15,5%/năm; cho vay khắc phục hậu quả bão lũ tối đa là 14,5%/năm.

Đây là lần thứ 5 liên tiếp trong vòng 4 tháng cuối năm 2011, BIDV giảm lãi suất cho vay VND. Theo đó, lãi suất đã từ mức trên 20% đã giảm xuống còn 14,5% như hiện nay. Bên cạnh đó, BIDV triển khai gói hỗ trợ tín dụng 5.000 tỷ đồng cho Chương trình tài trợ xuất khẩu theo ngành nghề với lãi suất thấp hơn 2% so với cho vay thông thường. Như vậy, rất có thể nhiều DN sẽ được vay với lãi suất 13,5%. Đây là mức lãi suất thấp hơn cả trần lãi suất huy động 14%.

Sau thông tin của BIDV hạ lãi suất, nhiều ngân hàng lớn khác cũng cho biết, họ cũng đã có kịch bản hạ lãi suất cho vay tiếp theo. Và một khi nhóm G12 với sự chi phối 80% thị trường hạ lãi suất theo một tín hiệu chung thì thị trường sẽ có một mặt bằng mới. Trong khi đó, chuyên gia từ Ngân hàng Đại Dương lại cho biết, thực tế, nhiều ngân hàng dù chưa có hẳn chương trình lớn nhưng trong những gói cho vay đặc thù của mình cũng đã hạ lãi suất xuống mức thấp hơn thị trường nên việc hạ lãi suất cũng là khả thi.

Đón nhận thông tin hạ lãi suất của BIDV, các DN vẫn có phản ứng dè chừng vì gói giảm lãi suất này như thường lệ vẫn dành cho một số nhóm đối tượng ưu tiên, không phải cho tất cả. Tuy nhiên, phản ứng tích cực nhất là khi khối DN sản xuất ổn định thì sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tích cực hơn. Đặc biệt, với mặt bằng lãi suất đã hạ sâu so với hồi tháng 8 cho khối sản xuất thì lãi suất dành cho các đối tượng khác sẽ có cơ hội giảm theo.

Nói về điều này, chuyên gia từ Học viện Tài chính chia sẻ, đã có những nghi vấn về việc lãi suất huy động đã giảm từ mức 18% - 20% về đúng trần 14% nhưng đa số lãi suất cho vay vẫn chưa giảm. Có thể hiểu điều này là, các ngân hàng chỉ mở cửa hẹp cho một số nhóm, còn lại vẫn thực thi chính sách thắt chặt để chống lạm phát. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là do trước đó các ngân hàng huy động vốn với lãi suất rất cao với số lượng lớn, cho nên dù lãi suất huy động đã giảm nhưng chưa thể đủ để tạo ra sự điều hoà trong nguồn vốn chung để tạo một mặt bằng lãi suất mới.

Thời điểm này, sau 4 tháng thực hiện lãi suất mới, các điều kiện lạm phát, thanh khoản của các ngân hàng ổn định và nhất là việc huy động vốn với mức lãi suất thấp đã đủ để có thể tính toán hạ lãi suất cho vay... cho nên các ngân hàng đã tính toán việc hạ. Dù cho việc này vẫn mang nhiều gượng ép và kỳ vọng tương lai hơn là thực tế.  Chính vì thế, trong dự đoán của nhiều chuyên gia, động thái này, cộng với những tuyên bố gần đây có thể hy vọng, hạ lãi suất huy động lại chính là bước đi báo hiệu cho việc hạ lãi suất đầu vào.

Tháng 11, lạm phát đã tiếp tục ở mức thấp dưới 1%, dự báo tháng 12 dù cận tết nhưng vẫn tiếp tục ở mức thấp. Đây chính là cơ sở để Chính phủ đề ra chủ trương tiếp tục hạ lãi suất trong thời gian tới. Điều này đã được khẳng định sau cuộc họp mới đây của Chính phủ và trở thành một yêu cầu sau khi khối DN đang gặp khó khăn suốt một năm dài chống lạm phát.

Sau đó, Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định sẽ tiến hành điều chỉnh lãi suất giảm theo các điều kiện phù hợp. Lập tức, trên thị trường đã rộ lên thông tin sẽ giảm lãi suất huy động về mức 12%. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã cho biết, chưa thể giảm lãi suất nhanh như vậy thậm chí trong tháng 12 sẽ khó có thể thay đổi trần lãi suất huy động.

Tuy nhiên, trong những cuộc họp bàn gần đây, các ngân hàng thương mại cho biết, trước mắt, mức lãi suất tiền gửi cao nhất chưa giảm về 12% như tin đồn. Nhưng năm tới, lãi suất tiền gửi có thể sẽ giảm, nhưng điều chỉnh theo từng bậc, không "nhảy cóc" 2 bậc một lúc.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi năm 2011 chỉ còn tính bằng ngày và các điều kiện cho hạ lãi suất đã lộ rõ hơn thì việc tính toán hạ lãi suất cho đầu 2011 là điều đang được nhiều người kỳ vọng. Rất có thể, không phải là 2011 nhuưng 2012 thì cũng không còn là xa. Nhưng điều quan trọng hơn, khi các ngân hàng hạ lãi suất, chắc chắn họ đã phải tính kỹ trên những kỳ vọng về lạm phát, ổn định vĩ mô trong thời gian tới.

Tuy nhiên, không chờ giảm lãi suất huy động để cho vay mà trong tình hình này, việc giảm cho vay trước không chỉ đáp ứng các mục tiêu chính sách, hỗ trợ DN mà còn có lợi cho các ngân hàng trong việc tìm kiếm khách hàng, chuẩn bị cho một năm kinh doanh mới. Có lẽ các ngân hàng đã tính trước việc này nên kỳ vọng giảm lãi suất cho vay là tín hiệu để giảm lãi suất huy động không phải là không có cơ sở.

 

Theo PHƯỚC HÀ

 VEF


 


Ngân hàng: Chấm dứt tình trạng "đại gia" chống lưng

Ngày đăng : 16/12/2011 - 11:09 AM

Chấm dứt tình trạng cổ đông lớn là thành viên HĐQT thao túng hoạt động của ngân hàng là yêu cầu trong đổi mới quản trị, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại.


Tình trạng “đại gia” đứng sau lưng ngân hàng, chi phối hoạt động của ngân hàng dẫn tới rủi ro của hệ thống đã được cảnh báo từ lâu. Chấm dứt tình trạng này là một trong những yêu cầu tiên quyết đảm bảo sự thành công của công cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

TS. Nguyễn Trí Hiếu, thành viên thường trực HĐQT Ngân hàng TMCP An Bình cho rằng, HĐQT của nhiều ngân hàng Việt Nam không chỉ tham gia ở khâu định hướng, chiến lược, mà còn can thiệp quá sâu vào việc điều hành. Biểu hiện là HĐQT tổ chức họp thường xuyên, thường là họp đột xuất và họp trong sự căng thẳng. “Tại nhiều ngân hàng, một số cổ đông lớn, cổ đông sáng lập thường dành cho mình quyền kiểm soát tuyệt đối, không chỉ về mặt chiến lược, mà cả những quyết định quan trọng thuộc thẩm quyền Ban điều hành. Ranh giới giữa chỉ đạo, ban hành chủ trương với việc thực hiện chủ trương không rõ ràng, dẫn tới HĐQT vừa đá bóng, vừa thổi còi”, ông Hiếu nhấn mạnh khi cho rằng, hệ thống ngân hàng Việt Nam muốn lành mạnh, đủ sức cạnh tranh với khu vực thì không thể không tái cấu trúc, trong đó nâng cao năng lực quản trị DN được đặc biệt coi trọng.

Thừa nhận thực trạng này ở Việt Nam, TS. Lê Thị Kim Nga, Ủy viên HĐQT Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho hay, cơ chế quản trị “một thủ trưởng” ở Việt Nam đã được thực hiện trong một thời gian dài. Với mô hình này, dù có sự phân định rõ ràng HĐQT và Ban điều hành, song thực chất, DN đó chỉ chịu sự điều hành của một người (chủ tịch HĐQT hoặc tổng giám đốc). Trên thực tế, nhiều tổng giám đốc hoặc chủ tịch HĐQT do không chịu nổi sức ép về quyền lực hoặc nhận thấy vị trí quyền lực của mình chỉ là hình thức đã xin nghỉ hưu sớm hoặc chuyển công tác.

Tổng giám đốc một ngân hàng TMCP có tỷ lệ cho vay bất động sản hơn 40% cũng chia sẻ: “Biết là cho vay bất động sản rất nhiều rủi ro, nhưng chúng tôi không thể không làm, vì một số thành viên HĐQT là cổ đông lớn của ngân hàng. Nếu không xử lý triệt để vấn đề này thì việc tái cơ cấu ngân hàng chỉ giải quyết được phần ngọn mà thôi”.

Rõ ràng, đẩy mạnh quản trị DN để tái cấu trúc ngân hàng là cấp thiết, song điều trớ trêu là khuôn khổ pháp lý cho vấn đề này hoàn toàn bị bỏ trống. Luật Các tổ chức tín dụng ra đời năm 2010 được hy vọng đưa vấn đề quản trị ngân hàng vào khuôn khổ. Thế nhưng, sau một năm có hiệu lực, các thông tư, nghị định hướng dẫn Luật vẫn chưa ra đời.

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) nhận định, những vấn đề nổi lên trong hệ thống ngân hàng hiện nay như thiếu thanh khoản, nợ xấu, mất cân đối kỳ hạn, rủi ro đạo đức, sở hữu chéo… đều thể hiện sự yếu kém trong quản trị của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, do hành lang pháp lý chưa rõ ràng, nên nhiều vấn đề nổi lên trong quản trị của hệ thống ngân hàng chưa được giải quyết.

Trước mắt, TS. Nguyễn Đại Lai, chuyên gia tài chính - ngân hàng cho rằng, cần hoàn thiện hệ thống thanh tra, giám sát. Theo đó, việc thanh tra, giám sát không thể chỉ tiến hành bằng cơ chế một ủy ban, một tổng cục duy nhất từ phía Nhà nước, mà cần có thêm một tổ chức độc lập. Có thể dựa trên việc nâng cao vị thế quyền lực và chức năng của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hiện nay. Về lâu dài, nên có một lộ trình để từng bước “công ty hóa” các hoạt động thanh tra, giám sát, bảo hiểm.


Theo Hà Tâm
Báo đầu tư
 


Kênh đầu tư nào nguy hiểm nhất trong năm 2012?

Ngày đăng : 15/12/2011 - 7:37 PM

Chứng khoán đang vùng vẫy ở vùng đáy, còn vàng đang lơ lửng ở vùng đỉnh. Cả hai thị trường này đều bị đe dọa về thanh khoản. Hẳn nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để rút ra kết luận về nơi nào cần rút tiền.

                       

 

Những ẩn số suy thoái

Năm 2011 đã gần trôi qua với câu hỏi chưa từng được mãn nguyện: chọn kênh đầu tư nào có hiệu quả?

Thị trường kinh doanh mang tính đại chúng tựu trung vẫn chỉ có 5 kênh đầu tư: vàng, ngoại tệ, gửi ngân hàng, chứng khoán và bất động sản. Nhưng tính thách đố quá mức của năm nay đã khiến cho việc giải bài toán bỏ tiền vào đâu của năm sau trở nên rất phức tạp.

Không chỉ một hoặc hai ẩn số, mà phương trình đầu tư có đến năm ẩn số.

Bối cảnh chung là một sắc màu u ám ở hầu hết các kênh. Không thể cứ mãi duy lý thuyết của kinh tế học vĩ mô về lợi thế so sánh hay tận dụng cơ hội rủi ro để dễ làm giàu, mà phải căn cứ vào tình hình thực tế.

Không gì rõ ràng hơn là năm 2011 đã biểu thị cho khoảng thời gian mà nền kinh tế Việt Nam chìm trong suy thoái. Vào đầu năm, xảy ra đồng thời với cuộc “cách mạng hoa nhài” bất thần ở Bắc Phi và sau đó lan sang vùng Trung Đông, nền kinh tế nước ta cũng gánh chịu một cuộc “cách mạng” với tính chất khác: chỉ số lạm phát bất ngờ tăng tốc.

Thật ra những điều kiện khởi nguồn cho lạm phát đã hội tụ từ quý 4 năm 2010. Nhưng chỉ đến giữa năm 2011, người ta mới kịp nhận ra là đã có đến gần 50.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh phá sản – một con số vượt gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010. Mà con số 50.000 doanh nghiệp đó mới chỉ mang tính thống kê chính thức.

Hệ quả của phá sản là nạn thất nghiệp. Mặc dù đã không có một thống kê đủ thuyết phục nào được công bố về tỷ lệ thất nghiệp thực tế ở Việt Nam, song điều dễ nhận thấy là dạng thất nghiệp bán thời gian là rất phổ biến.

Nguyên nhân và cũng là hệ quả của tình trạng trên là giá cả các loại hàng hóa chính như thực phẩm, xăng dầu, điện… cùng lãi suất cho vay tại ngân hàng leo thang đến mức khó tả. Với đa số doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ, đã khó có nhiều doanh nghiệp đạt được tỷ lệ lợi nhuận sau thuế ở mức 20% để có thể gồng mình vay mượn ngân hàng với lãi suất 25-27%.

Thế bế tắc của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là “điểm chết” đối với kênh đầu tư hàng hóa chuyên dùng – một kênh không được xem là phổ thông.

Chứng khoán?

Tuy nhiên, trên tất cả và đặc biệt nguy hiểm chính là kênh đầu tư vào chứng khoán. Nếu vào cuối năm 2010, chỉ số chứng khoán sàn Hà Nội (HNX) còn giữ được vùng trên 100 điểm thì đến tháng 12/2011, chỉ số này đã sụt giảm gần 50%. Đó là một tỷ lệ quà lớn nếu so với tình hình vận hành của các TTCK ở châu Á.

HNX lại mang tính đại diện, đại diện một cách thực chất cho TTCK Việt Nam, chứ không phải là chỉ số VNI từ hơn một năm qua đã bị thao túng và do đó bị làm cho biến dạng triệt để bởi những cổ phiếu có vốn hóa siêu lớn như BVH, VIC, MSN, VNM.

Các nhà đầu tư vào kênh chứng khoán từ đầu năm 2011 đến nay đã nhận lãnh thất bại không còn gì để bàn cãi. Chỉ số giảm một nửa, nhưng giá nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ, kể cả một số bluechip đã mất đến 70-80%. Không chỉ khủng hoảng trên sàn Hà Nội, rất nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ trên sàn TP.HCM cũng chịu chung số phận thê thiết như thế.

Từ cả năm nay, nhiều lần giới phân tích và các nhà đầu tư tranh luận không ngớt về hiện trạng của chỉ số chứng khoán trên hai sàn đã đủ cho chúng lập đáy hay chưa. Nhiều kỳ vọng về đáy đã hình thành. Nhưng cũng như bong bóng xà phòng, hy vọng ấy mau chóng bị tan vỡ khi chỉ số tiếp tục phá đáy cũ, lập đáy mới.

Song từ giữa năm 2011 đến nay, ngoài hậu quả lao dốc về điểm số và mất giá cổ  phiếu, TTCK còn mang trên mình một tai họa khác: thanh khoản. Ban đầu chỉ là hiện tượng một số cổ phiếu nhỏ dần cạn kiệt lượng giao dịch. Nhưng sau đó, cơn bão này mạnh hẳn lên và lan đến hàng trăm cổ phiếu khác.

Hiện tượng cạn kiệt và dẫn đến mất thanh khoản lại từ nhóm cổ phiếu tràn sang khối công ty chứng khoán. Đến đây, vở bi kịch mới bắt đầu màn thê lương nhất của nó. SME là công ty chứng khoán đầu tiên bị vét sạch tiền - đầu tiên là tiền phải trả nợ cho ngân hàng, sau đó là thiếu tiền thanh toán cho khách hàng. Sau SME là công ty chứng khoán Tràng An (TAS), rồi tới công ty chứng khoán Đông Dương…

Không khó khăn gì để hình dung ra kịch bản mất thanh khoản sẽ còn hành hạ nhiều công ty chứng khoán nhỏ và vừa khác. Mối nguy của thị trường này đã lớn gấp đôi thị trường bất động sản khu vực phía Nam. Bởi đơn giản là thị trường BĐS, dù quá eo hẹp về giao dịch nhưng mặt bằng giá lại không bị giảm kinh hoàng như TTCK.

Vào những ngày cuối năm 2011, vẫn chưa có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy năm 2012 sẽ là giai đoạn phục hồi của TTCK. Bởi thế, việc chọn lựa đầu tư vào thị trường này trong năm sau vẫn mang tính hiểm nguy không nhỏ.

Kênh nào hiểm nguy nhất?

Đó cũng là lý do vì sao nên chọn lựa một phương án triết lý khác trong đầu tư. Thay vì cố gắng tìm ra kênh đầu tư nào hiệu quả nhất theo cách nhìn từ trên xuống dưới, có lẽ nhà đầu tư lại cần suy nghĩ theo quy trình ngược lại – nhìn từ duới lên trên, với việc xác định kênh đầu tư nào có độ rủi ro nhất, cần tránh né nhất trong năm 2012.

Nhưng chứng khoán có phải là kênh rủi ro nhất trong tất cả các kênh có thể đầu tư? Cần suy nghĩ về chọn lựa này một cách nghiêm túc.

Nói gì thì nói, TTCK cũng đã giảm chưa từng thấy, đưa Việt Nam trở thành một trong ba TTCK, cùng với Hy Lạp và Síp ở châu Âu, có thực tế lẫn triển vọng u ám nhất trên thế giới.

Tuy nhiên, nếu chỉ xét về mặt bằng giá thì có thể khẳng định là giá của rất nhiều cổ phiếu trên TTCK Việt Nam đang ở vùng đáy. Vùng đáy này không biểu thị cho sự phục hồi mau chóng của chúng, nhưng ít nhất, cùng với tính thanh khoản cạn kiệt, cũng khiến chúng khó giảm mạnh trong thời gian tới.

Trong khi đó, ở một thái cực hoàn toàn ngược lại, vàng đang trở thành một ẩn số khó hiểu nhất.

Khác hẳn với chứng khoán, đến quý 3 năm 2011, giá vàng trong nước đã lập đỉnh cao nhất từ 11 năm qua, tính từ mốc năm 2000. Cũng trong 11 năm qua, trong khi giá vàng thế giới tăng 7,6 lần thì giá vàng trong nước đã tăng vọt đến chẵn 10 lần. Tỷ lệ này thậm chí còn vượt trên cả chỉ số tăng của BĐS.

Vậy xu thế giá vàng trong nước sẽ biến động ra sao trong thời gian tới?

Ai cũng biết giá vàng trong nước phụ thuộc cơ bản vào giá vàng thế giới. Nhưng giá vàng trong nước cũng đang lệ thuộc vào chính sách quản lý kinh doanh vàng – một yếu tố mới xuất hiện từ khoảng 4 tháng nay ở Việt Nam.

Trên thị trường quốc tế, hiện thời vẫn có hai luồng quan điểm về xu hướng của giá vàng. Một cách nhìn thiên về thái độ lạc quan. Morgan Stanley, một ngân hàng lớn của Mỹ, vẫn cho rằng trong năm 2012 giá vàng có thể đạt đến 2.200 USD/oz. Thậm chí, còn khá nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng giá vàng chỉ có tăng mà không thể giảm, về dài hạn có đến vươn lên mức 4.000 hoặc 6.000 USD/oz.

Còn ở cách nhìn ngược lại, một số nhà phân tích lại xem giá vàng thế giới đã thực sự lập đỉnh 1.900 USD/oz vào tháng 8/2011. Nếu cách nhìn này là đúng thì không loại trừ sẽ xuất hiện hiện tượng bong bóng vàng, hay chính xác hơn là sẽ có thể xảy ra một vụ nổ bong bóng vàng, đưa vàng thế giới về vùng giá 1.500 USD/oz, thậm chí còn thấp hơn nhiều – 1.200 USD/oz hoặc 1.000 USD/oz.

Vào quý 4/2011, giá vàng thế giới lại phụ thuộc cơ bản vào đường đi của TTCK Mỹ. Với những gì mà chỉ số chứng khoán Dow Jones đang thể hiện, có hy vọng là TTCK Mỹ sẽ không bị sụt giảm quá mạnh trong ít ra 6 tháng tới, và điều đó cũng củng cố cho các ngưỡng hỗ trợ của giá vàng.

Nhưng nếu trong những tháng tới, TTCK thế giới lâm vào tình cảnh biến động mạnh và lao dốc, thân phận của giá vàng sẽ ra sao?

Hơn thế, chính sách “siết” thanh khoản của kinh doanh vàng miếng đang được Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiến hành, đã dần co hẹp lượng giao dịch trên thị trường vàng trong nước. Cho tới nay, điều ngạc nhiên là hiện tượng “biến mất” của vàng miếng thuộc những thương hiệu truyền thống và nổi tiếng như Rồng Vàng Thăng Long, một khả năng mà chỉ mới cuối quý 3 năm 2011 đã chẳng có mấy nhà đầu tư và người tiêu dùng nào hình dung ra.

Rõ ràng trong con mắt của Nhà nước, thị trường kinh doanh vàng miếng không cần được ưu đãi. Thậm chí ngược lại, rủi ro “đóng cửa” đối với thị trường này luôn chực chờ, đi kèm với một chính sách bất ngờ nào đó từ phía Ngân hàng nhà nước.

Và cũng gần như TTCK, thị trường vàng đang phải đối mặt với nguy cơ hụt thanh khoản. Mới đầu là thiếu thanh khoản tại một số thương hiệu vàng. Nhưng không có gì bảo đảm là ngay cả vàng miếng thương hiệu SJC cũng có thể cầm cự được về thanh khoản cho đến tháng 5/2012 -thời điểm mà công cuộc “tái cấu trúc” 12.000 cơ sở kinh doanh vàng được hiểu là sẽ cơ bản hoàn thành.

Chứng khoán đang vùng vẫy ở vùng đáy, còn vàng đang lơ lửng ở vùng đỉnh. Cả hai thị trường này đều bị đe dọa về thanh khoản.

Hẳn nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để rút ra kết luận về nơi nào cần rút tiền.

 

Theo  Dân trí


 


Đến cuối tháng 10, chỉ còn 22/115 tổ chức tín dụng có mức tăng tín dụng vượt 20%

Ngày đăng : 15/12/2011 - 5:58 PM

Số liệu cập nhật mới nhất cho thấy, trong tháng 10/2011, có 59 tổ chức tín dụng tăng trưởng âm so với tháng trước vì hết giới hạn.


 

Đang mùa cao điểm bơm vốn, có ý kiến cho rằng, thay vì cào bằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân đối chỉ tiêu này giữa khối quốc doanh và cổ phần để giải quyết ách tắc cho một bộ phận tín dụng cuối năm.

Người thiếu, kẻ thừa

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, đến tháng 11/2011, tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng ước tăng 10%, Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu để cả năm tăng khoảng 12% - 13%. Và nếu kể cả những khoản đầu tư có bản chất tín dụng thì con số trên có thể lên tới 15% trong năm nay.

Tín dụng toàn ngành thấp xa so với chỉ tiêu “dưới 20%” tại Nghị quyết 11/CP đã làm cho các nhà quản lý kinh tế vĩ mô tạm yên tâm đối với việc kiềm chế lạm phát hiện nay, ít nhất là về mặt số học, do có nhiều lo ngại trước con số tổng mức tín dụng toàn bộ nền kinh tế đã vượt quá 125% GDP.

Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất bên trong, đang tồn tại một số bất cập: những đơn vị có quy mô tín dụng lớn (khối nhà nước) thì mức tăng tín dụng rất thấp, trong khi nhiều tổ chức tín dụng khác lại không thể tăng thêm do vượt quá chỉ tiêu 20% nói trên.

Thống kê từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối tháng 10/2011, có 38/115 tổ chức tín dụng mức tăng tín dụng vượt 15% và 22 đơn vị trong số đó vượt 20%.

Không thể tăng tín dụng do đã vượt giới hạn nên trong tháng 10/2011, tình trạng tăng trưởng tín dụng sụt giảm, thậm chí âm, đã xảy ra ở nhiều đơn vị. Theo đó, trong tháng 10, cả nước có 59 đơn vị tăng trưởng tín dụng âm so với tháng 9/2011.

Một  điểm đáng lưu ý là số tổ chức tín dụng cạn trần tín dụng tập trung chủ yếu vào các ngân hàng quy mô nhỏ, chẳng hạn Industrial and Commercial Bank of China, Hong Leong Việt Nam; Commonwealth Bank of Australia, BNP Bank, Standard Chartered Việt Nam.

Trước tình trạng này, rất nhiều đơn vị đã ngừng cho vay từ tháng mấy tháng trước đó. Lý do một phần vì giới hạn tăng trưởng tín dụng đã hết nhưng còn một lý do khác là họ phải lo đưa dư nợ phi sản xuất về 16% nên chỉ tập trung thu hồi các khoản nợ, cơ cấu lại dư nợ để giảm nợ xấu.

Xu hướng ngừng cho vay không chỉ tập trung ở các ngân hàng trong nước mà còn diễn ra ở các ngân hàng nước ngoài. Chẳng hạn, Standard Chartered Việt Nam ngừng cho vay đã nhiều tháng qua và hiện chỉ còn tập trung mảng kinh doanh dịch vụ, phát triển khách hàng tiền gửi, dịch vụ thanh toán…

Trong khi nhiều tổ chức tín dụng nhỏ hết dư địa tăng tín dụng thì nhiều ngân hàng thương mại lớn, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh, lại thừa. Đơn cử, hết tháng 10, tăng trưởng tín dụng của Agribank chỉ đạt 1,74%. Còn với một ngân hàng thương mại nhà nước khác thì đến hết tháng 11/2011, chỉ tăng trên 15% nhưng một tỷ trọng khá lớn trong đó là nhờ vào việc ngân hàng này ký một loạt “thỏa thuận hợp tác song phương” với một số ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn tăng trưởng tín dụng. Qua bản “hợp tác” đó, ngân hàng này đã cho vay đối với các dự án của ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn.

Tìm hướng giải quyết

Trước thực tế này, một số ngân hàng thương mại trong nước thiếu “room” và thừa “room” đã tìm cách liên kết với nhau để tự giải quyết.

Cụ thể, những đơn vị quy mô nhỏ, hết “room” lại đang dở dang ký hợp đồng giải ngân vào các dự án lớn và bắt buộc phải tiếp tục cấp vốn mới để thu hồi vốn cũ, đã bắt tay với các ngân hàng dư “room” tín dụng để tận dụng lợi thế này.

Gần đây, có khá nhiều bản hợp tác giữa ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, một mặt là để giúp nhau vượt qua khó khăn thanh khoản nhưng mặt khác là để phối hợp với nhau triển khai các dự án tài trợ, hợp vốn cho vay. Ước tính, con số này lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Thứ  hai, đối với một số ngân hàng nước ngoài lại tìm cách khác. Họ chuyển những dự án mà họ  đang tài trợ sang cho các ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Vì thế, về danh nghĩa, tín dụng của họ không phạm vào “giới hạn 20%” nhưng vốn vẫn được giải quyết, họ chỉ giữ vai trò giám sát dự án, quản lý và thu nợ giúp ngân hàng mẹ.

Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch LienVietPostBank, “không nên duy trì quá lâu trình trạng này mà nên mấp mô tín dụng giữa các đơn vị”. Theo đó, sẽ có những đơn vị chỉ tăng trưởng 5% - 10% nhưng có đơn vị tăng trưởng 30% - 35%.

Cách để “mấp mô”, như ông Hưởng nói, là nên bớt dư địa tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước dành cho các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Bởi vì, 1% tăng tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước lớn bằng hàng chục phần trăm của các tổ chức tín dụng nhỏ khác. Làm như vậy cũng tránh rủi ro cho các ngân hàng thương mại lớn vì khi dư nợ của họ quá lớn, sẽ rất khó quản lý; còn những ngân hàng nhỏ, cân đối nguồn tốt thì nên cho họ tăng lên 30% - 35% là hợp lý.

Tất nhiên, muốn làm được như vậy cũng cần phải dựa trên các tiêu chí như kết quả hoạt động năm trước, quy mô vốn, khả năng cân đối nguồn, hệ số an toàn… Nói tóm lại, Ngân hàng Nhà nước phải là cơ quan điều phối chỉ tiêu từ thừa sang thiếu thì mới giải quyết được tình trạng này.

Theo một nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước, sang năm 2012, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào thực lực từng ngân hàng để quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng cho từng đơn vị. Qua đó, nhà quản lý sẽ công khai minh bạch “sức khỏe”  từng tổ chức tín dụng để tránh kêu ca về việc được tăng nhiều hay tăng ít.

 

 


Theo Nguyễn Hoài

 VnEconomy

 


 

Tin mới cập nhật