Ngày đăng :
15/12/2011 - 7:37 PM
Chứng khoán đang vùng vẫy ở vùng đáy, còn vàng đang lơ lửng ở vùng đỉnh. Cả hai thị trường này đều bị đe dọa về thanh khoản. Hẳn nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để rút ra kết luận về nơi nào cần rút tiền.
Những ẩn số suy thoái
Năm 2011 đã gần trôi qua với câu hỏi chưa từng được mãn nguyện: chọn kênh đầu tư nào có hiệu quả?
Thị trường kinh doanh mang tính đại chúng tựu trung vẫn chỉ có 5 kênh đầu tư: vàng, ngoại tệ, gửi ngân hàng, chứng khoán và bất động sản. Nhưng tính thách đố quá mức của năm nay đã khiến cho việc giải bài toán bỏ tiền vào đâu của năm sau trở nên rất phức tạp.
Không chỉ một hoặc hai ẩn số, mà phương trình đầu tư có đến năm ẩn số.
Bối cảnh chung là một sắc màu u ám ở hầu hết các kênh. Không thể cứ mãi duy lý thuyết của kinh tế học vĩ mô về lợi thế so sánh hay tận dụng cơ hội rủi ro để dễ làm giàu, mà phải căn cứ vào tình hình thực tế.
Không gì rõ ràng hơn là năm 2011 đã biểu thị cho khoảng thời gian mà nền kinh tế Việt Nam chìm trong suy thoái. Vào đầu năm, xảy ra đồng thời với cuộc “cách mạng hoa nhài” bất thần ở Bắc Phi và sau đó lan sang vùng Trung Đông, nền kinh tế nước ta cũng gánh chịu một cuộc “cách mạng” với tính chất khác: chỉ số lạm phát bất ngờ tăng tốc.
Thật ra những điều kiện khởi nguồn cho lạm phát đã hội tụ từ quý 4 năm 2010. Nhưng chỉ đến giữa năm 2011, người ta mới kịp nhận ra là đã có đến gần 50.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh phá sản – một con số vượt gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010. Mà con số 50.000 doanh nghiệp đó mới chỉ mang tính thống kê chính thức.
Hệ quả của phá sản là nạn thất nghiệp. Mặc dù đã không có một thống kê đủ thuyết phục nào được công bố về tỷ lệ thất nghiệp thực tế ở Việt Nam, song điều dễ nhận thấy là dạng thất nghiệp bán thời gian là rất phổ biến.
Nguyên nhân và cũng là hệ quả của tình trạng trên là giá cả các loại hàng hóa chính như thực phẩm, xăng dầu, điện… cùng lãi suất cho vay tại ngân hàng leo thang đến mức khó tả. Với đa số doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ, đã khó có nhiều doanh nghiệp đạt được tỷ lệ lợi nhuận sau thuế ở mức 20% để có thể gồng mình vay mượn ngân hàng với lãi suất 25-27%.
Thế bế tắc của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là “điểm chết” đối với kênh đầu tư hàng hóa chuyên dùng – một kênh không được xem là phổ thông.
Chứng khoán?
Tuy nhiên, trên tất cả và đặc biệt nguy hiểm chính là kênh đầu tư vào chứng khoán. Nếu vào cuối năm 2010, chỉ số chứng khoán sàn Hà Nội (HNX) còn giữ được vùng trên 100 điểm thì đến tháng 12/2011, chỉ số này đã sụt giảm gần 50%. Đó là một tỷ lệ quà lớn nếu so với tình hình vận hành của các TTCK ở châu Á.
HNX lại mang tính đại diện, đại diện một cách thực chất cho TTCK Việt Nam, chứ không phải là chỉ số VNI từ hơn một năm qua đã bị thao túng và do đó bị làm cho biến dạng triệt để bởi những cổ phiếu có vốn hóa siêu lớn như BVH, VIC, MSN, VNM.
Các nhà đầu tư vào kênh chứng khoán từ đầu năm 2011 đến nay đã nhận lãnh thất bại không còn gì để bàn cãi. Chỉ số giảm một nửa, nhưng giá nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ, kể cả một số bluechip đã mất đến 70-80%. Không chỉ khủng hoảng trên sàn Hà Nội, rất nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ trên sàn TP.HCM cũng chịu chung số phận thê thiết như thế.
Từ cả năm nay, nhiều lần giới phân tích và các nhà đầu tư tranh luận không ngớt về hiện trạng của chỉ số chứng khoán trên hai sàn đã đủ cho chúng lập đáy hay chưa. Nhiều kỳ vọng về đáy đã hình thành. Nhưng cũng như bong bóng xà phòng, hy vọng ấy mau chóng bị tan vỡ khi chỉ số tiếp tục phá đáy cũ, lập đáy mới.
Song từ giữa năm 2011 đến nay, ngoài hậu quả lao dốc về điểm số và mất giá cổ phiếu, TTCK còn mang trên mình một tai họa khác: thanh khoản. Ban đầu chỉ là hiện tượng một số cổ phiếu nhỏ dần cạn kiệt lượng giao dịch. Nhưng sau đó, cơn bão này mạnh hẳn lên và lan đến hàng trăm cổ phiếu khác.
Hiện tượng cạn kiệt và dẫn đến mất thanh khoản lại từ nhóm cổ phiếu tràn sang khối công ty chứng khoán. Đến đây, vở bi kịch mới bắt đầu màn thê lương nhất của nó. SME là công ty chứng khoán đầu tiên bị vét sạch tiền - đầu tiên là tiền phải trả nợ cho ngân hàng, sau đó là thiếu tiền thanh toán cho khách hàng. Sau SME là công ty chứng khoán Tràng An (TAS), rồi tới công ty chứng khoán Đông Dương…
Không khó khăn gì để hình dung ra kịch bản mất thanh khoản sẽ còn hành hạ nhiều công ty chứng khoán nhỏ và vừa khác. Mối nguy của thị trường này đã lớn gấp đôi thị trường bất động sản khu vực phía Nam. Bởi đơn giản là thị trường BĐS, dù quá eo hẹp về giao dịch nhưng mặt bằng giá lại không bị giảm kinh hoàng như TTCK.
Vào những ngày cuối năm 2011, vẫn chưa có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy năm 2012 sẽ là giai đoạn phục hồi của TTCK. Bởi thế, việc chọn lựa đầu tư vào thị trường này trong năm sau vẫn mang tính hiểm nguy không nhỏ.
Kênh nào hiểm nguy nhất?
Đó cũng là lý do vì sao nên chọn lựa một phương án triết lý khác trong đầu tư. Thay vì cố gắng tìm ra kênh đầu tư nào hiệu quả nhất theo cách nhìn từ trên xuống dưới, có lẽ nhà đầu tư lại cần suy nghĩ theo quy trình ngược lại – nhìn từ duới lên trên, với việc xác định kênh đầu tư nào có độ rủi ro nhất, cần tránh né nhất trong năm 2012.
Nhưng chứng khoán có phải là kênh rủi ro nhất trong tất cả các kênh có thể đầu tư? Cần suy nghĩ về chọn lựa này một cách nghiêm túc.
Nói gì thì nói, TTCK cũng đã giảm chưa từng thấy, đưa Việt Nam trở thành một trong ba TTCK, cùng với Hy Lạp và Síp ở châu Âu, có thực tế lẫn triển vọng u ám nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, nếu chỉ xét về mặt bằng giá thì có thể khẳng định là giá của rất nhiều cổ phiếu trên TTCK Việt Nam đang ở vùng đáy. Vùng đáy này không biểu thị cho sự phục hồi mau chóng của chúng, nhưng ít nhất, cùng với tính thanh khoản cạn kiệt, cũng khiến chúng khó giảm mạnh trong thời gian tới.
Trong khi đó, ở một thái cực hoàn toàn ngược lại, vàng đang trở thành một ẩn số khó hiểu nhất.
Khác hẳn với chứng khoán, đến quý 3 năm 2011, giá vàng trong nước đã lập đỉnh cao nhất từ 11 năm qua, tính từ mốc năm 2000. Cũng trong 11 năm qua, trong khi giá vàng thế giới tăng 7,6 lần thì giá vàng trong nước đã tăng vọt đến chẵn 10 lần. Tỷ lệ này thậm chí còn vượt trên cả chỉ số tăng của BĐS.
Vậy xu thế giá vàng trong nước sẽ biến động ra sao trong thời gian tới?
Ai cũng biết giá vàng trong nước phụ thuộc cơ bản vào giá vàng thế giới. Nhưng giá vàng trong nước cũng đang lệ thuộc vào chính sách quản lý kinh doanh vàng – một yếu tố mới xuất hiện từ khoảng 4 tháng nay ở Việt Nam.
Trên thị trường quốc tế, hiện thời vẫn có hai luồng quan điểm về xu hướng của giá vàng. Một cách nhìn thiên về thái độ lạc quan. Morgan Stanley, một ngân hàng lớn của Mỹ, vẫn cho rằng trong năm 2012 giá vàng có thể đạt đến 2.200 USD/oz. Thậm chí, còn khá nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng giá vàng chỉ có tăng mà không thể giảm, về dài hạn có đến vươn lên mức 4.000 hoặc 6.000 USD/oz.
Còn ở cách nhìn ngược lại, một số nhà phân tích lại xem giá vàng thế giới đã thực sự lập đỉnh 1.900 USD/oz vào tháng 8/2011. Nếu cách nhìn này là đúng thì không loại trừ sẽ xuất hiện hiện tượng bong bóng vàng, hay chính xác hơn là sẽ có thể xảy ra một vụ nổ bong bóng vàng, đưa vàng thế giới về vùng giá 1.500 USD/oz, thậm chí còn thấp hơn nhiều – 1.200 USD/oz hoặc 1.000 USD/oz.
Vào quý 4/2011, giá vàng thế giới lại phụ thuộc cơ bản vào đường đi của TTCK Mỹ. Với những gì mà chỉ số chứng khoán Dow Jones đang thể hiện, có hy vọng là TTCK Mỹ sẽ không bị sụt giảm quá mạnh trong ít ra 6 tháng tới, và điều đó cũng củng cố cho các ngưỡng hỗ trợ của giá vàng.
Nhưng nếu trong những tháng tới, TTCK thế giới lâm vào tình cảnh biến động mạnh và lao dốc, thân phận của giá vàng sẽ ra sao?
Hơn thế, chính sách “siết” thanh khoản của kinh doanh vàng miếng đang được Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiến hành, đã dần co hẹp lượng giao dịch trên thị trường vàng trong nước. Cho tới nay, điều ngạc nhiên là hiện tượng “biến mất” của vàng miếng thuộc những thương hiệu truyền thống và nổi tiếng như Rồng Vàng Thăng Long, một khả năng mà chỉ mới cuối quý 3 năm 2011 đã chẳng có mấy nhà đầu tư và người tiêu dùng nào hình dung ra.
Rõ ràng trong con mắt của Nhà nước, thị trường kinh doanh vàng miếng không cần được ưu đãi. Thậm chí ngược lại, rủi ro “đóng cửa” đối với thị trường này luôn chực chờ, đi kèm với một chính sách bất ngờ nào đó từ phía Ngân hàng nhà nước.
Và cũng gần như TTCK, thị trường vàng đang phải đối mặt với nguy cơ hụt thanh khoản. Mới đầu là thiếu thanh khoản tại một số thương hiệu vàng. Nhưng không có gì bảo đảm là ngay cả vàng miếng thương hiệu SJC cũng có thể cầm cự được về thanh khoản cho đến tháng 5/2012 -thời điểm mà công cuộc “tái cấu trúc” 12.000 cơ sở kinh doanh vàng được hiểu là sẽ cơ bản hoàn thành.
Chứng khoán đang vùng vẫy ở vùng đáy, còn vàng đang lơ lửng ở vùng đỉnh. Cả hai thị trường này đều bị đe dọa về thanh khoản.
Hẳn nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để rút ra kết luận về nơi nào cần rút tiền.
Theo Dân trí
|
Ngày đăng :
15/12/2011 - 5:58 PM
Số liệu cập nhật mới nhất cho thấy, trong tháng 10/2011, có 59 tổ chức tín dụng tăng trưởng âm so với tháng trước vì hết giới hạn.
Đang mùa cao điểm bơm vốn, có ý kiến cho rằng, thay vì cào bằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân đối chỉ tiêu này giữa khối quốc doanh và cổ phần để giải quyết ách tắc cho một bộ phận tín dụng cuối năm.
Người thiếu, kẻ thừa
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, đến tháng 11/2011, tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng ước tăng 10%, Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu để cả năm tăng khoảng 12% - 13%. Và nếu kể cả những khoản đầu tư có bản chất tín dụng thì con số trên có thể lên tới 15% trong năm nay.
Tín dụng toàn ngành thấp xa so với chỉ tiêu “dưới 20%” tại Nghị quyết 11/CP đã làm cho các nhà quản lý kinh tế vĩ mô tạm yên tâm đối với việc kiềm chế lạm phát hiện nay, ít nhất là về mặt số học, do có nhiều lo ngại trước con số tổng mức tín dụng toàn bộ nền kinh tế đã vượt quá 125% GDP.
Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất bên trong, đang tồn tại một số bất cập: những đơn vị có quy mô tín dụng lớn (khối nhà nước) thì mức tăng tín dụng rất thấp, trong khi nhiều tổ chức tín dụng khác lại không thể tăng thêm do vượt quá chỉ tiêu 20% nói trên.
Thống kê từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối tháng 10/2011, có 38/115 tổ chức tín dụng mức tăng tín dụng vượt 15% và 22 đơn vị trong số đó vượt 20%.
Không thể tăng tín dụng do đã vượt giới hạn nên trong tháng 10/2011, tình trạng tăng trưởng tín dụng sụt giảm, thậm chí âm, đã xảy ra ở nhiều đơn vị. Theo đó, trong tháng 10, cả nước có 59 đơn vị tăng trưởng tín dụng âm so với tháng 9/2011.
Một điểm đáng lưu ý là số tổ chức tín dụng cạn trần tín dụng tập trung chủ yếu vào các ngân hàng quy mô nhỏ, chẳng hạn Industrial and Commercial Bank of China, Hong Leong Việt Nam; Commonwealth Bank of Australia, BNP Bank, Standard Chartered Việt Nam.
Trước tình trạng này, rất nhiều đơn vị đã ngừng cho vay từ tháng mấy tháng trước đó. Lý do một phần vì giới hạn tăng trưởng tín dụng đã hết nhưng còn một lý do khác là họ phải lo đưa dư nợ phi sản xuất về 16% nên chỉ tập trung thu hồi các khoản nợ, cơ cấu lại dư nợ để giảm nợ xấu.
Xu hướng ngừng cho vay không chỉ tập trung ở các ngân hàng trong nước mà còn diễn ra ở các ngân hàng nước ngoài. Chẳng hạn, Standard Chartered Việt Nam ngừng cho vay đã nhiều tháng qua và hiện chỉ còn tập trung mảng kinh doanh dịch vụ, phát triển khách hàng tiền gửi, dịch vụ thanh toán…
Trong khi nhiều tổ chức tín dụng nhỏ hết dư địa tăng tín dụng thì nhiều ngân hàng thương mại lớn, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh, lại thừa. Đơn cử, hết tháng 10, tăng trưởng tín dụng của Agribank chỉ đạt 1,74%. Còn với một ngân hàng thương mại nhà nước khác thì đến hết tháng 11/2011, chỉ tăng trên 15% nhưng một tỷ trọng khá lớn trong đó là nhờ vào việc ngân hàng này ký một loạt “thỏa thuận hợp tác song phương” với một số ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn tăng trưởng tín dụng. Qua bản “hợp tác” đó, ngân hàng này đã cho vay đối với các dự án của ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn.
Tìm hướng giải quyết
Trước thực tế này, một số ngân hàng thương mại trong nước thiếu “room” và thừa “room” đã tìm cách liên kết với nhau để tự giải quyết.
Cụ thể, những đơn vị quy mô nhỏ, hết “room” lại đang dở dang ký hợp đồng giải ngân vào các dự án lớn và bắt buộc phải tiếp tục cấp vốn mới để thu hồi vốn cũ, đã bắt tay với các ngân hàng dư “room” tín dụng để tận dụng lợi thế này.
Gần đây, có khá nhiều bản hợp tác giữa ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, một mặt là để giúp nhau vượt qua khó khăn thanh khoản nhưng mặt khác là để phối hợp với nhau triển khai các dự án tài trợ, hợp vốn cho vay. Ước tính, con số này lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Thứ hai, đối với một số ngân hàng nước ngoài lại tìm cách khác. Họ chuyển những dự án mà họ đang tài trợ sang cho các ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Vì thế, về danh nghĩa, tín dụng của họ không phạm vào “giới hạn 20%” nhưng vốn vẫn được giải quyết, họ chỉ giữ vai trò giám sát dự án, quản lý và thu nợ giúp ngân hàng mẹ.
Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch LienVietPostBank, “không nên duy trì quá lâu trình trạng này mà nên mấp mô tín dụng giữa các đơn vị”. Theo đó, sẽ có những đơn vị chỉ tăng trưởng 5% - 10% nhưng có đơn vị tăng trưởng 30% - 35%.
Cách để “mấp mô”, như ông Hưởng nói, là nên bớt dư địa tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước dành cho các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Bởi vì, 1% tăng tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước lớn bằng hàng chục phần trăm của các tổ chức tín dụng nhỏ khác. Làm như vậy cũng tránh rủi ro cho các ngân hàng thương mại lớn vì khi dư nợ của họ quá lớn, sẽ rất khó quản lý; còn những ngân hàng nhỏ, cân đối nguồn tốt thì nên cho họ tăng lên 30% - 35% là hợp lý.
Tất nhiên, muốn làm được như vậy cũng cần phải dựa trên các tiêu chí như kết quả hoạt động năm trước, quy mô vốn, khả năng cân đối nguồn, hệ số an toàn… Nói tóm lại, Ngân hàng Nhà nước phải là cơ quan điều phối chỉ tiêu từ thừa sang thiếu thì mới giải quyết được tình trạng này.
Theo một nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước, sang năm 2012, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào thực lực từng ngân hàng để quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng cho từng đơn vị. Qua đó, nhà quản lý sẽ công khai minh bạch “sức khỏe” từng tổ chức tín dụng để tránh kêu ca về việc được tăng nhiều hay tăng ít.
Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy
|
Ngày đăng :
15/12/2011 - 5:38 PM
Mức lãi suất này được áp dụng cho doanh nghiệp cam kết bán lại ngoại tệ lại cho ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước vừa công bố báo cáo hoạt động ngân hàng tuần từ 3/12-9/12/2011.
Theo báo cáo, hiện lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 15-18%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng.
Lãi suất cho vay sản xuất - kinh doanh khác khoảng 18-21%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 22-25%/năm.
Lãi suất cho vay USD ít biến động so với tuần trước. Hiện nay, lãi suất phổ biến ở mức 6-7,5%/năm đối với cho vay ngắn hạn; 7,5-9%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất huy động của các ngân hàng tiếp tục ổn định. Lãi suất huy động VND phổ biến sát 6%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng, 14%/năm ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên.
Lãi suất huy động USD phổ biến 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5%/năm đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế.
Theo SBV
|
Ngày đăng :
15/12/2011 - 4:34 PM
Chiều ngày 15/12/2011, Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV) tổ chức họp báo công bố thông tin điều chỉnh hạ lãi suất cho vay.
Ông Phạm Quang Tùng – Phó TGĐ BIDV cho biết, trong 6 tháng 2011 với chủ trương ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định sản xuất và ưu tiên vào 4 lĩnh vực là doanh nghiệp ngành hàng xuất khẩu, phát triển nông nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khắc phục hậu quả bão lụt.
Đợt hạ lãi suất này sẽ giảm thêm 0,5%/năm so với mức lãi suất trước đây, được áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn từ 3 tháng trở xuống. Chương trình sẽ bắt đầu từ ngày 19/12/2011.
Lãi suất cho vay ngắn hạn xuống hạ xuống14,5% -15,5%/năm, cụ thể:
- Với doanh nghiệp xuất khẩu, lãi suất tối đa là 15,5 %/năm áp dụng cho các bạn hàng truyền thống, doanh số xuất khẩu lớn qua BIDV và cam kết ngoại tệ cho ngân hàng.
- Lãi suất cho vay nông nghiệp và nông thôn và doanh nghiệp vừa và nhỏ không quá 15,5%/năm; áp dụng với đối tượng xếp hạng tín dụng A trở lên, sử dụng dịch vụ khép kín tại BIDV và không có nợ quá hạn 180 ngày trở lên.
- Đối với vốn cho doanh nghiệp giải quyết khó khăn bão lụt lãi suất tối đa là 14,5%/năm; áp dụng cho các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại BIDV, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Theo Kiều Thuật
TTVN
|
Ngày đăng :
15/12/2011 - 1:14 PM
Số liệu cập nhật mới nhất cho thấy, trong tháng 10/2011, có 59 tổ chức tín dụng tăng trưởng âm so với tháng trước vì hết giới hạn.
Đang mùa cao điểm bơm vốn, có ý kiến cho rằng, thay vì cào bằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân đối chỉ tiêu này giữa khối quốc doanh và cổ phần để giải quyết ách tắc cho một bộ phận tín dụng cuối năm.
Người thiếu, kẻ thừa
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, đến tháng 11/2011, tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng ước tăng 10%, Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu để cả năm tăng khoảng 12% - 13%. Và nếu kể cả những khoản đầu tư có bản chất tín dụng thì con số trên có thể lên tới 15% trong năm nay.
Tín dụng toàn ngành thấp xa so với chỉ tiêu “dưới 20%” tại Nghị quyết 11/CP đã làm cho các nhà quản lý kinh tế vĩ mô tạm yên tâm đối với việc kiềm chế lạm phát hiện nay, ít nhất là về mặt số học, do có nhiều lo ngại trước con số tổng mức tín dụng toàn bộ nền kinh tế đã vượt quá 125% GDP.
Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất bên trong, đang tồn tại một số bất cập: những đơn vị có quy mô tín dụng lớn (khối nhà nước) thì mức tăng tín dụng rất thấp, trong khi nhiều tổ chức tín dụng khác lại không thể tăng thêm do vượt quá chỉ tiêu 20% nói trên.
Thống kê từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối tháng 10/2011, có 38/115 tổ chức tín dụng mức tăng tín dụng vượt 15% và 22 đơn vị trong số đó vượt 20%.
Không thể tăng tín dụng do đã vượt giới hạn nên trong tháng 10/2011, tình trạng tăng trưởng tín dụng sụt giảm, thậm chí âm, đã xảy ra ở nhiều đơn vị. Theo đó, trong tháng 10, cả nước có 59 đơn vị tăng trưởng tín dụng âm so với tháng 9/2011.
Một điểm đáng lưu ý là số tổ chức tín dụng cạn trần tín dụng tập trung chủ yếu vào các ngân hàng quy mô nhỏ, chẳng hạn Industrial and Commercial Bank of China, Hong Leong Việt Nam; Commonwealth Bank of Australia, BNP Bank, Standard Chartered Việt Nam.
Trước tình trạng này, rất nhiều đơn vị đã ngừng cho vay từ tháng mấy tháng trước đó. Lý do một phần vì giới hạn tăng trưởng tín dụng đã hết nhưng còn một lý do khác là họ phải lo đưa dư nợ phi sản xuất về 16% nên chỉ tập trung thu hồi các khoản nợ, cơ cấu lại dư nợ để giảm nợ xấu.
Xu hướng ngừng cho vay không chỉ tập trung ở các ngân hàng trong nước mà còn diễn ra ở các ngân hàng nước ngoài. Chẳng hạn, Standard Chartered Việt Nam ngừng cho vay đã nhiều tháng qua và hiện chỉ còn tập trung mảng kinh doanh dịch vụ, phát triển khách hàng tiền gửi, dịch vụ thanh toán…
Trong khi nhiều tổ chức tín dụng nhỏ hết dư địa tăng tín dụng thì nhiều ngân hàng thương mại lớn, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh, lại thừa. Đơn cử, hết tháng 10, tăng trưởng tín dụng của Agribank chỉ đạt 1,74%. Còn với một ngân hàng thương mại nhà nước khác thì đến hết tháng 11/2011, chỉ tăng trên 15% nhưng một tỷ trọng khá lớn trong đó là nhờ vào việc ngân hàng này ký một loạt “thỏa thuận hợp tác song phương” với một số ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn tăng trưởng tín dụng. Qua bản “hợp tác” đó, ngân hàng này đã cho vay đối với các dự án của ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn.
Tìm hướng giải quyết
Trước thực tế này, một số ngân hàng thương mại trong nước thiếu “room” và thừa “room” đã tìm cách liên kết với nhau để tự giải quyết.
Cụ thể, những đơn vị quy mô nhỏ, hết “room” lại đang dở dang ký hợp đồng giải ngân vào các dự án lớn và bắt buộc phải tiếp tục cấp vốn mới để thu hồi vốn cũ, đã bắt tay với các ngân hàng dư “room” tín dụng để tận dụng lợi thế này.
Gần đây, có khá nhiều bản hợp tác giữa ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, một mặt là để giúp nhau vượt qua khó khăn thanh khoản nhưng mặt khác là để phối hợp với nhau triển khai các dự án tài trợ, hợp vốn cho vay. Ước tính, con số này lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Thứ hai, đối với một số ngân hàng nước ngoài lại tìm cách khác. Họ chuyển những dự án mà họ đang tài trợ sang cho các ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Vì thế, về danh nghĩa, tín dụng của họ không phạm vào “giới hạn 20%” nhưng vốn vẫn được giải quyết, họ chỉ giữ vai trò giám sát dự án, quản lý và thu nợ giúp ngân hàng mẹ.
Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch LienVietPostBank, “không nên duy trì quá lâu trình trạng này mà nên mấp mô tín dụng giữa các đơn vị”. Theo đó, sẽ có những đơn vị chỉ tăng trưởng 5% - 10% nhưng có đơn vị tăng trưởng 30% - 35%.
Cách để “mấp mô”, như ông Hưởng nói, là nên bớt dư địa tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước dành cho các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Bởi vì, 1% tăng tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước lớn bằng hàng chục phần trăm của các tổ chức tín dụng nhỏ khác. Làm như vậy cũng tránh rủi ro cho các ngân hàng thương mại lớn vì khi dư nợ của họ quá lớn, sẽ rất khó quản lý; còn những ngân hàng nhỏ, cân đối nguồn tốt thì nên cho họ tăng lên 30% - 35% là hợp lý.
Tất nhiên, muốn làm được như vậy cũng cần phải dựa trên các tiêu chí như kết quả hoạt động năm trước, quy mô vốn, khả năng cân đối nguồn, hệ số an toàn… Nói tóm lại, Ngân hàng Nhà nước phải là cơ quan điều phối chỉ tiêu từ thừa sang thiếu thì mới giải quyết được tình trạng này.
Theo một nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước, sang năm 2012, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào thực lực từng ngân hàng để quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng cho từng đơn vị. Qua đó, nhà quản lý sẽ công khai minh bạch “sức khỏe” từng tổ chức tín dụng để tránh kêu ca về việc được tăng nhiều hay tăng ít.
Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy
|