Đến cuối tháng 10, chỉ còn 22/115 tổ chức tín dụng có mức tăng tín dụng vượt 20%

Ngày đăng : 15/12/2011 - 5:58 PM

Số liệu cập nhật mới nhất cho thấy, trong tháng 10/2011, có 59 tổ chức tín dụng tăng trưởng âm so với tháng trước vì hết giới hạn.


 

Đang mùa cao điểm bơm vốn, có ý kiến cho rằng, thay vì cào bằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân đối chỉ tiêu này giữa khối quốc doanh và cổ phần để giải quyết ách tắc cho một bộ phận tín dụng cuối năm.

Người thiếu, kẻ thừa

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, đến tháng 11/2011, tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng ước tăng 10%, Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu để cả năm tăng khoảng 12% - 13%. Và nếu kể cả những khoản đầu tư có bản chất tín dụng thì con số trên có thể lên tới 15% trong năm nay.

Tín dụng toàn ngành thấp xa so với chỉ tiêu “dưới 20%” tại Nghị quyết 11/CP đã làm cho các nhà quản lý kinh tế vĩ mô tạm yên tâm đối với việc kiềm chế lạm phát hiện nay, ít nhất là về mặt số học, do có nhiều lo ngại trước con số tổng mức tín dụng toàn bộ nền kinh tế đã vượt quá 125% GDP.

Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất bên trong, đang tồn tại một số bất cập: những đơn vị có quy mô tín dụng lớn (khối nhà nước) thì mức tăng tín dụng rất thấp, trong khi nhiều tổ chức tín dụng khác lại không thể tăng thêm do vượt quá chỉ tiêu 20% nói trên.

Thống kê từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối tháng 10/2011, có 38/115 tổ chức tín dụng mức tăng tín dụng vượt 15% và 22 đơn vị trong số đó vượt 20%.

Không thể tăng tín dụng do đã vượt giới hạn nên trong tháng 10/2011, tình trạng tăng trưởng tín dụng sụt giảm, thậm chí âm, đã xảy ra ở nhiều đơn vị. Theo đó, trong tháng 10, cả nước có 59 đơn vị tăng trưởng tín dụng âm so với tháng 9/2011.

Một  điểm đáng lưu ý là số tổ chức tín dụng cạn trần tín dụng tập trung chủ yếu vào các ngân hàng quy mô nhỏ, chẳng hạn Industrial and Commercial Bank of China, Hong Leong Việt Nam; Commonwealth Bank of Australia, BNP Bank, Standard Chartered Việt Nam.

Trước tình trạng này, rất nhiều đơn vị đã ngừng cho vay từ tháng mấy tháng trước đó. Lý do một phần vì giới hạn tăng trưởng tín dụng đã hết nhưng còn một lý do khác là họ phải lo đưa dư nợ phi sản xuất về 16% nên chỉ tập trung thu hồi các khoản nợ, cơ cấu lại dư nợ để giảm nợ xấu.

Xu hướng ngừng cho vay không chỉ tập trung ở các ngân hàng trong nước mà còn diễn ra ở các ngân hàng nước ngoài. Chẳng hạn, Standard Chartered Việt Nam ngừng cho vay đã nhiều tháng qua và hiện chỉ còn tập trung mảng kinh doanh dịch vụ, phát triển khách hàng tiền gửi, dịch vụ thanh toán…

Trong khi nhiều tổ chức tín dụng nhỏ hết dư địa tăng tín dụng thì nhiều ngân hàng thương mại lớn, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh, lại thừa. Đơn cử, hết tháng 10, tăng trưởng tín dụng của Agribank chỉ đạt 1,74%. Còn với một ngân hàng thương mại nhà nước khác thì đến hết tháng 11/2011, chỉ tăng trên 15% nhưng một tỷ trọng khá lớn trong đó là nhờ vào việc ngân hàng này ký một loạt “thỏa thuận hợp tác song phương” với một số ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn tăng trưởng tín dụng. Qua bản “hợp tác” đó, ngân hàng này đã cho vay đối với các dự án của ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn.

Tìm hướng giải quyết

Trước thực tế này, một số ngân hàng thương mại trong nước thiếu “room” và thừa “room” đã tìm cách liên kết với nhau để tự giải quyết.

Cụ thể, những đơn vị quy mô nhỏ, hết “room” lại đang dở dang ký hợp đồng giải ngân vào các dự án lớn và bắt buộc phải tiếp tục cấp vốn mới để thu hồi vốn cũ, đã bắt tay với các ngân hàng dư “room” tín dụng để tận dụng lợi thế này.

Gần đây, có khá nhiều bản hợp tác giữa ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, một mặt là để giúp nhau vượt qua khó khăn thanh khoản nhưng mặt khác là để phối hợp với nhau triển khai các dự án tài trợ, hợp vốn cho vay. Ước tính, con số này lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Thứ  hai, đối với một số ngân hàng nước ngoài lại tìm cách khác. Họ chuyển những dự án mà họ  đang tài trợ sang cho các ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Vì thế, về danh nghĩa, tín dụng của họ không phạm vào “giới hạn 20%” nhưng vốn vẫn được giải quyết, họ chỉ giữ vai trò giám sát dự án, quản lý và thu nợ giúp ngân hàng mẹ.

Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch LienVietPostBank, “không nên duy trì quá lâu trình trạng này mà nên mấp mô tín dụng giữa các đơn vị”. Theo đó, sẽ có những đơn vị chỉ tăng trưởng 5% - 10% nhưng có đơn vị tăng trưởng 30% - 35%.

Cách để “mấp mô”, như ông Hưởng nói, là nên bớt dư địa tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước dành cho các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Bởi vì, 1% tăng tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước lớn bằng hàng chục phần trăm của các tổ chức tín dụng nhỏ khác. Làm như vậy cũng tránh rủi ro cho các ngân hàng thương mại lớn vì khi dư nợ của họ quá lớn, sẽ rất khó quản lý; còn những ngân hàng nhỏ, cân đối nguồn tốt thì nên cho họ tăng lên 30% - 35% là hợp lý.

Tất nhiên, muốn làm được như vậy cũng cần phải dựa trên các tiêu chí như kết quả hoạt động năm trước, quy mô vốn, khả năng cân đối nguồn, hệ số an toàn… Nói tóm lại, Ngân hàng Nhà nước phải là cơ quan điều phối chỉ tiêu từ thừa sang thiếu thì mới giải quyết được tình trạng này.

Theo một nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước, sang năm 2012, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào thực lực từng ngân hàng để quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng cho từng đơn vị. Qua đó, nhà quản lý sẽ công khai minh bạch “sức khỏe”  từng tổ chức tín dụng để tránh kêu ca về việc được tăng nhiều hay tăng ít.

 

 


Theo Nguyễn Hoài

 VnEconomy

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

NHNN: Lãi suất cho vay xuống thấp nhất 13,5%/năm

Ngày đăng : 15/12/2011 - 5:38 PM

Mức lãi suất này được áp dụng cho doanh nghiệp cam kết bán lại ngoại tệ lại cho ngân hàng.

 

 

Ngân hàng Nhà nước vừa công bố báo cáo hoạt động ngân hàng tuần từ 3/12-9/12/2011.

Theo báo cáo, hiện lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 15-18%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng.

Lãi suất cho vay sản xuất - kinh doanh khác khoảng 18-21%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 22-25%/năm.

Lãi suất cho vay USD ít biến động so với tuần trước. Hiện nay, lãi suất phổ biến ở mức 6-7,5%/năm đối với cho vay ngắn hạn; 7,5-9%/năm đối với trung và dài hạn.

Lãi suất huy động của các ngân hàng tiếp tục ổn định. Lãi suất huy động VND phổ biến sát 6%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng, 14%/năm ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên.

Lãi suất huy động USD phổ biến 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5%/năm đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế.

 

Theo  SBV

 




 
 


BIDV hạ lãi suất cho vay

Ngày đăng : 15/12/2011 - 4:34 PM

Chiều ngày 15/12/2011, Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV) tổ chức họp báo công bố thông tin điều chỉnh hạ lãi suất cho vay.


Ông Phạm Quang Tùng – Phó TGĐ BIDV cho biết, trong 6 tháng 2011 với chủ trương ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định sản xuất và ưu tiên vào 4 lĩnh vực là doanh nghiệp ngành hàng xuất khẩu, phát triển nông nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khắc phục hậu quả bão lụt.
Đợt hạ lãi suất này sẽ giảm thêm 0,5%/năm so với mức lãi suất trước đây, được áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn từ 3 tháng trở xuống. Chương trình sẽ bắt đầu từ ngày 19/12/2011.
 
Lãi suất cho vay ngắn hạn xuống hạ xuống14,5% -15,5%/năm, cụ thể:

- Với doanh nghiệp xuất khẩu, lãi suất tối đa là 15,5 %/năm áp dụng cho các bạn hàng truyền thống, doanh số xuất khẩu lớn qua BIDV và cam kết ngoại tệ cho ngân hàng.
 
- Lãi suất cho vay nông nghiệp và nông thôn và doanh nghiệp vừa và nhỏ không quá 15,5%/năm; áp dụng với đối tượng xếp hạng tín dụng A trở lên, sử dụng dịch vụ khép kín tại BIDV và không có nợ quá hạn 180 ngày trở lên.
 
- Đối với vốn cho doanh nghiệp giải quyết khó khăn bão lụt lãi suất tối đa là 14,5%/năm; áp dụng cho các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại BIDV, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn.



Theo Kiều Thuật

TTVN
 


Ngân hàng đánh vật với giới hạn tín dụng cuối năm

Ngày đăng : 15/12/2011 - 1:14 PM

Số liệu cập nhật mới nhất cho thấy, trong tháng 10/2011, có 59 tổ chức tín dụng tăng trưởng âm so với tháng trước vì hết giới hạn.

Đang mùa cao điểm bơm vốn, có ý kiến cho rằng, thay vì cào bằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân đối chỉ tiêu này giữa khối quốc doanh và cổ phần để giải quyết ách tắc cho một bộ phận tín dụng cuối năm.

Người thiếu, kẻ thừa

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, đến tháng 11/2011, tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng ước tăng 10%, Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu để cả năm tăng khoảng 12% - 13%. Và nếu kể cả những khoản đầu tư có bản chất tín dụng thì con số trên có thể lên tới 15% trong năm nay. 

Tín dụng toàn ngành thấp xa so với chỉ tiêu “dưới 20%” tại Nghị quyết 11/CP đã làm cho các nhà quản lý kinh tế vĩ mô tạm yên tâm đối với việc kiềm chế lạm phát hiện nay, ít nhất là về mặt số học, do có nhiều lo ngại trước con số tổng mức tín dụng toàn bộ nền kinh tế đã vượt quá 125% GDP.

Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất bên trong, đang tồn tại một số bất cập: những đơn vị có quy mô tín dụng lớn (khối nhà nước) thì mức tăng tín dụng rất thấp, trong khi nhiều tổ chức tín dụng khác lại không thể tăng thêm do vượt quá chỉ tiêu 20% nói trên.

Thống kê từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối tháng 10/2011, có 38/115 tổ chức tín dụng mức tăng tín dụng vượt 15% và 22 đơn vị trong số đó vượt 20%.

Không thể tăng tín dụng do đã vượt giới hạn nên trong tháng 10/2011, tình trạng tăng trưởng tín dụng sụt giảm, thậm chí âm, đã xảy ra ở nhiều đơn vị. Theo đó, trong tháng 10, cả nước có 59 đơn vị tăng trưởng tín dụng âm so với tháng 9/2011.

Một  điểm đáng lưu ý là số tổ chức tín dụng cạn trần tín dụng tập trung chủ yếu vào các ngân hàng quy mô nhỏ, chẳng hạn Industrial and Commercial Bank of China, Hong Leong Việt Nam; Commonwealth Bank of Australia, BNP Bank, Standard Chartered Việt Nam.

Trước tình trạng này, rất nhiều đơn vị đã ngừng cho vay từ tháng mấy tháng trước đó. Lý do một phần vì giới hạn tăng trưởng tín dụng đã hết nhưng còn một lý do khác là họ phải lo đưa dư nợ phi sản xuất về 16% nên chỉ tập trung thu hồi các khoản nợ, cơ cấu lại dư nợ để giảm nợ xấu.

Xu hướng ngừng cho vay không chỉ tập trung ở các ngân hàng trong nước mà còn diễn ra ở các ngân hàng nước ngoài. Chẳng hạn, Standard Chartered Việt Nam ngừng cho vay đã nhiều tháng qua và hiện chỉ còn tập trung mảng kinh doanh dịch vụ, phát triển khách hàng tiền gửi, dịch vụ thanh toán…

Trong khi nhiều tổ chức tín dụng nhỏ hết dư địa tăng tín dụng thì nhiều ngân hàng thương mại lớn, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh, lại thừa. Đơn cử, hết tháng 10, tăng trưởng tín dụng của Agribank chỉ đạt 1,74%. Còn với một ngân hàng thương mại nhà nước khác thì đến hết tháng 11/2011, chỉ tăng trên 15% nhưng một tỷ trọng khá lớn trong đó là nhờ vào việc ngân hàng này ký một loạt “thỏa thuận hợp tác song phương” với một số ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn tăng trưởng tín dụng. Qua bản “hợp tác” đó, ngân hàng này đã cho vay đối với các dự án của ngân hàng nhỏ đã hết giới hạn.

Tìm hướng giải quyết

Trước thực tế này, một số ngân hàng thương mại trong nước thiếu “room” và thừa “room” đã tìm cách liên kết với nhau để tự giải quyết.

Cụ thể, những đơn vị quy mô nhỏ, hết “room” lại đang dở dang ký hợp đồng giải ngân vào các dự án lớn và bắt buộc phải tiếp tục cấp vốn mới để thu hồi vốn cũ, đã bắt tay với các ngân hàng dư “room” tín dụng để tận dụng lợi thế này.

Gần đây, có khá nhiều bản hợp tác giữa ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, một mặt là để giúp nhau vượt qua khó khăn thanh khoản nhưng mặt khác là để phối hợp với nhau triển khai các dự án tài trợ, hợp vốn cho vay. Ước tính, con số này lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Thứ  hai, đối với một số ngân hàng nước ngoài lại tìm cách khác. Họ chuyển những dự án mà họ  đang tài trợ sang cho các ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Vì thế, về danh nghĩa, tín dụng của họ không phạm vào “giới hạn 20%” nhưng vốn vẫn được giải quyết, họ chỉ giữ vai trò giám sát dự án, quản lý và thu nợ giúp ngân hàng mẹ.

Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch LienVietPostBank, “không nên duy trì quá lâu trình trạng này mà nên mấp mô tín dụng giữa các đơn vị”. Theo đó, sẽ có những đơn vị chỉ tăng trưởng 5% - 10% nhưng có đơn vị tăng trưởng 30% - 35%.

Cách để “mấp mô”, như ông Hưởng nói, là nên bớt dư địa tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước dành cho các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Bởi vì, 1% tăng tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước lớn bằng hàng chục phần trăm của các tổ chức tín dụng nhỏ khác. Làm như vậy cũng tránh rủi ro cho các ngân hàng thương mại lớn vì khi dư nợ của họ quá lớn, sẽ rất khó quản lý; còn những ngân hàng nhỏ, cân đối nguồn tốt thì nên cho họ tăng lên 30% - 35% là hợp lý.

Tất nhiên, muốn làm được như vậy cũng cần phải dựa trên các tiêu chí như kết quả hoạt động năm trước, quy mô vốn, khả năng cân đối nguồn, hệ số an toàn… Nói tóm lại, Ngân hàng Nhà nước phải là cơ quan điều phối chỉ tiêu từ thừa sang thiếu thì mới giải quyết được tình trạng này.

Theo một nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước, sang năm 2012, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào thực lực từng ngân hàng để quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng cho từng đơn vị. Qua đó, nhà quản lý sẽ công khai minh bạch “sức khỏe”  từng tổ chức tín dụng để tránh kêu ca về việc được tăng nhiều hay tăng ít.

Theo Nguyễn Hoài

VnEconomy

 


Fitch hạ xếp hạng 5 ngân hàng lớn tại châu Âu

Ngày đăng : 15/12/2011 - 8:53 AM
Fitch chỉ ra thị trường vốn, đặc biệt thị trường liên ngân hàng, hiện đang không hoạt động hiệu quả, cùng với nhiều yếu tố toàn cầu khác, khủng hoảng đang kéo kinh tế đi xuống.
 
Tổ chức xếp hạng tín dụng Fitch đã quyết định hạ xếp hạng tín dụng của 5 ngân hàng thương mại và tập đoàn ngân hàng tại châu Âu sau khi xem xét đến xếp hạng của nhóm ngân hàng lớn nhất thế giới.
 
Trong thông cáo báo chí, Fitch công bố đã hạ xếp hạng của ngân hàng Banque Federative du Credit Mutuel, Credit Agricole , Danske Bank , OP Pohjola Group và Rabobank Group.
 
Đối với các ngân hàng khác, Fed nhận xét các ngân hàng cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng gián tiếp.
 
Fitch khẳng định quyết định hạ xếp hạng tín dụng của nhóm 5 ngân hàng trên phản ánh những khó khăn mà ngành ngân hàng châu Âu đang đương đầu. Việc có liên quan trực tiếp đến các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu thông qua các chi nhánh đã được tính đến trong quyết định hạ xếp hạng ngân hàng Danske Bank và ngân hàng Credit Agricole.
 
Fitch chỉ ra thị trường vốn, đặc biệt thị trường liên ngân hàng, hiện đang không hoạt động hiệu quả, cùng với nhiều yếu tố toàn cầu khác, khủng hoảng đang kéo kinh tế đi xuống.
 
Theo Minh Ngọc
TTVN

Tín dụng cuối năm 2011 : Diễn biến trái chiều

Ngày đăng : 14/12/2011 - 11:28 PM

Hiện thị trường tín dụng tại khu vực Đông Nam Bộ đang có hai diễn biến trái ngược là một số ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) lớn đã công bố hạ tiếp lãi suất vay....

 

                    

 

Hiện thị trường tín dụng tại khu vực Đông Nam Bộ đang có hai diễn biến trái ngược là một số ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) lớn đã công bố hạ tiếp lãi suất vay, đặc biệt là các khoản vay xuất khẩu, sản xuất nhưng điều kiện vay vẫn “khó”. Còn ở một số ngân hàng nhỏ, tuy DN dễ tiếp cận nguồn vốn hơn nhưng lãi suất vẫn cao.

Theo thông lệ, DN sẽ có nhu cầu vốn cao hơn bình thường do phải dự trữ nguyên liệu trước cho đơn hàng năm sau và thanh toán các khoản tiền cuối năm âm lịch. Tuy nhiên đến thời điểm này, nhu cầu vay vốn vẫn ít hơn hẳn so với cùng kỳ các năm trước.

Ngân hàng lớn hạ lãi suất

Tuy lãi suất huy động chưa giảm như nhiều “đồn đoán” gần đây, song vì nhiều lý do, lãi vay đã giảm. Đi đầu trong việc hạ lãi suất ở thời điểm này là một số ngân hàng lớn, như: BIDV, Vietcombank, Vietinbank... với mức hạ từ 0,5 - 2,5%/năm, chủ yếu ở các khoản vay xuất khẩu, sản xuất.

Cụ thể, Vietcombank chi nhánh Đồng Nai từ ngày 30/11 đã áp mức lãi suất 15%/năm cho một số đối tượng vay xuất khẩu, mức cho vay sản xuất - kinh doanh thông thường còn 16,2 - 17,6%/năm, giảm chút ít so với trước đó. Mức 17,6%/năm cũng là mức vay cao nhất đối với nhóm sản xuất - kinh doanh đang áp dụng tại ngân hàng này (không kể các khoản vay chứng khoán, BĐS, tiêu dùng... đang rất hạn chế cho vay).

Tương tự, Ngân hàng Đầu tư phát triển BIDV với gói hỗ trợ vay sản xuất - xuất khẩu khoảng 5 ngàn tỉ đồng hiện đang áp mức lãi gần như thấp nhất trên thị trường.

Ông Võ Văn Tý - Giám đốc BIDV Đồng Nai nói, chi nhánh đang cho vay xuất khẩu thấp nhất ở mức 14,8 - 15,7%/năm cho các khách hàng tốt, sử dụng nhiều dịch vụ của BIDV, riêng nội dung vay sản xuất - kinh doanh thông thường áp dụng mức 16 - 17%/năm.

Cũng theo ông Tý, ngoài mức lãi đã công bố như trên, khoảng 130 tỉ đồng cho vay xuất khẩu ở một nhóm ngành, nghề ưu đãi, như: may mặc, chế biến nông sản thực phẩm, chế biến gỗ... thì  lãi suất sẽ giảm thêm 0,5% nữa.

Tuy nhiên, BIDV cho biết, mức lãi trên chỉ áp dụng cho vay ngắn hạn bởi chỉ tiêu trung - dài hạn đã chạm trần. Vietinbank Đồng Nai cũng vừa giảm lãi suất thêm so với tháng trước, mức lãi vay sản xuất - kinh doanh ở ngân hàng này hiện còn khoàng 16,5 - 18%/năm tùy đối tượng.

Mặc dù lãi vay đã giảm khá mạnh, từ 0,5 - 2,5%/năm so với đầu tháng 10, song nhiều ngân hàng cho biết, rất khó tìm khách vay. Ông Võ Đức Thiện - Phó giám đốc Vietinbank chi nhánh Đồng Nai nhận xét năm nay khá “lạ” khi lãi giảm mà ít DN vay.

“Dư nợ đang có xu hướng giảm dù lãi đã hạ, nhiều khách hàng tìm cách trả nợ chứ không vay thêm. Điều này khác với “không khí” của những năm trước, khi vào cuối năm, nhu cầu vay thường tăng mạnh. Theo tôi, những khó khăn tồn tại suốt mấy năm qua đã làm nhiều DN chạm ngưỡng chịu đựng và không có nhiều niềm tin để vay vốn làm ăn trong năm tới - ông Thiện nói.

Lãi vẫn cao ở ngân hàng nhỏ

Không có tiềm lực về vốn như các ngân hàng lớn, khối ngân hàng TMCP nhỏ hiện giảm lãi suất vay rất chậm so với tháng trước. Hiện nhóm ngân hàng này đang áp mức lãi suất cao hơn lãi của nhóm ngân hàng lớn từ 1 - 4%/năm tùy nội dung vay.

Ở nội dung sản xuất - kinh doanh, nhiều ngân hàng nhỏ vẫn giữ mức lãi suất 18 - 20%, riêng nhóm phi sản xuất vẫn từ 21 - 24%/năm. Lý giải vấn đề này, một số giám đốc chi nhánh ngân hàng TMCP quy mô nhỏ tại Đồng Nai cho biết, họ khó có thể tham gia cuộc đua hạ lãi suất để tìm khách hàng vay tốt vì nhiều lý do: vẫn phải sử dụng nguồn vốn huy động với lãi suất cao để cho vay, hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, huy động vốn giảm mạnh...

Thực tế cho thấy, các DNNVV khó “chạm” được nguồn vốn với lãi suất thấp ở các ngân hàng lớn vì nhiều lý do, mà một trong các lý do chính là mức duyệt vay thường ít hơn rất nhiều so với nhu cầu vốn của DN.

Chính vì vậy, hầu như DN nhỏ thường tìm đến ngân hàng nhỏ. Ở nhóm ngân hàng này, đa số khách hàng là các DNNVV - đối tượng gặp nhiều khó khăn nhất trong mấy năm vừa qua - do đó khi ngân hàng này giữ lãi suất vay cao thì DN nhỏ vẫn thiệt thòi nhất.

Giám đốc một DN nhỏ trong ngành may mặc tại TP Biên Hòa nhận xét: “Mức lãi suất cho vay khoảng 19%/năm ở thời điểm hiện tại vẫn làm khó DN, nhất là các DNNVV, bởi trong giai đoạn môi trường kinh doanh nhiều bất ổn như hiện nay, phải có lợi nhuận trên 20% mới có thể bù đắp các chi phí về vốn, đầu vào, tăng lương cho công nhân...

Song, thị trường khó, doanh thu thấp nên rất ít đơn vị, ngành nghề nào thu được mức lợi nhuận trên. Hi vọng rằng đầu 2012, lãi suất vay giảm mạnh hơn nữa để DN có thể “chèo chống” tiếp”.

 

Theo  DDDN


 


 

Tin mới cập nhật