Tạm dừng lập mới tập đoàn nhà nước?

Ngày đăng : 09/12/2011 - 11:42 AM
Đó là nội dung quan trọng được Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đề cập trong phần phát biểu tại hội nghị sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, được tổ chức sáng 9/12 tại Hà Nội.
 
Theo Bộ này, tính đến nay đã có 12 tập đoàn kinh tế nhà nước được hình thành, nhưng những nội dung thí điểm áp dụng đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn chưa được triển khai thực hiện, việc tổ chức, hoạt động, quản lý và giám sát tập đoàn kinh tế nhà nước còn nhiều vấn đề đặt ra.
 
“Trước mắt, cần tạm dừng việc thí điểm thành lập mới tập đoàn kinh tế nhà nước trong 2-3 năm tới, để tập trung hoàn thiện khung pháp luật và cơ cấu tổ chức, việc quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước cùng với việc tái cấu trúc tập đoàn kinh tế nhà nước đã được thí điểm thành lập”, Thứ trưởng Đông phát biểu.
 
Vai trò mờ nhạt
 
Đánh giá khái quát việc thực hiện các mục tiêu thành lập tập đoàn, Bộ cho hay, qua thí điểm tổng tài sản của các tập đoàn kinh tế tăng bình quân 119,6%, tổng vốn chủ sở hữu tăng bình quân 75,1%, nguồn nhân lực tăng bình quân 16,36%. 
 
Tuy nhiên, Bộ nhìn nhận rằng phần lớn tập đoàn kinh tế thí điểm trong thời gian qua đều có sự tham gia của một số lượng lớn các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực với quy mô hoạt động tăng nhanh, gồm nhiều cấp doanh nghiệp, vượt quá trình độ, năng lực quản trị của bộ máy quản lý của tập đoàn, đã làm hạn chế kết quả hoạt động của nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước nói chung và quản lý, giám sát đối với các tập đoàn kinh tế nói riêng.
 
Bộ cũng lưu ý trong khi hầu hết các tập đoàn kinh tế đều kinh doanh có lãi nhưng hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao và chưa tương xứng với những ưu đãi về nguồn lực và những lợi thế khác. Đồng thời, thực trạng tài chính một số tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty thuộc tập đoàn còn yếu kém, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, mất cân đối tài chính.
 
Ngoài ra, Bộ cũng cho rằng việc thực hiện vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của các tập đoàn kinh tế còn hạn chế. Do hầu hết các tập đoàn kinh tế đều thực hiện tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh nên thực tế vai trò thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, vai trò tạo động lực phát triển các thành phần kinh tế khác, các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế quốc dân của tập đoàn kinh tế nhà nước còn mờ nhạt.
 
Liên quan đến việc đầu tư của các tập đoàn kinh tế nhà nước, Bộ cho rằng hầu hết các tập đoàn quá thiên về mở rộng quy mô đầu tư, đầu tư dàn trải, chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu nên hiệu quả đầu tư thấp. 
 
Điểm đáng chú ý được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ ra là ở một số tập đoàn kinh tế nhà nước, dù năng lực tài chính còn hạn chế, thiếu vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh chính nhưng vẫn thực hiện đầu tư ra ngoài ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn, bao gồm cả những linh vực kinh doanh nhạy cảm, rủi ro cao như tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm. 
 
Bộ cũng nhìn nhận, việc đầu tư ngoài ngành của các tập đoàn sẽ làm giảm cơ hội và hạn chế sự phát triển của khu vực tư nhân. “Hơn nữa, thực tế việc đầu tư ngoài ngành của các tập đoàn kinh tế nhà nước không mang lại hiệu quả, thậm chí thua lỗ, ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất kinh doanh chính và hệ lụy cho sự phát triển chung của tập đoàn”, Thứ trưởng Đông đề cập.
 
Giám sát, điều hành tập đoàn còn yếu
 
Đánh giá về công tác quản lý, điều hành trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, việc tổ chức, quản lý điều hành của các tập đoàn còn chậm đổi mới, hình thức liên kết khá đơn điệu; tổ chức quản lý của công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên còn một số bất cập như thành viên Hội đồng thành viên công ty mẹ còn kiêm nhiệm quản lý, điều hành tại doanh nghiệp thành viên, có thể xảy ra tình trạng “thiên vị” trong quá trình ra quyết sách, có thể gây xung đột, mâu thuẫn giữa các công ty thành viên…
 
Bộ cho rằng, hoạt động kiểm soát viên và kiểm soát nội bộ còn mang tính hình thức và thiếu hiệu quả. Cho đến nay, các tập đoàn kinh tế nhà nước  vẫn chưa bổ nhiệm được kiểm soát viên với lý do chưa có quy định pháp luật về tiêu chuẩn bổ nhiệm, cơ chế hoạt động, lương, thưởng…
 
“Thực tế cũng cho thấy, kiểm soát nội bộ chưa được chú trọng và kiểm soát viên chưa thực hiện tốt hoặc không có đủ điều kiện để thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu, giám sát hội đồng quản trị/hội đồng thành viên thực hiện nhiệm vụ do chủ sở hữu giao hoặc ủy quyền như pháp luật yêu cầu”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết.
 
Về quản lý, giám sát hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước, cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vẫn còn một số yếu kém, bất cập như chưa tách bạch được chức năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước, dễ tạo ra sự khác biệt không hợp lý trong quản lý nhà nước giữa các doanh nghiệp, thể hiện rõ trong các chính sách quản lý nhà nước đối với các ngành khai thác tài nguyên, khoáng sản, điện, viễn thông và các ngành có vị thế độc quyền, thống lĩnh thị trường…
 
Đồng thời, việc phân công, phân cấp thực hiện quyền giám sát tập đoàn kinh tế nhà nước còn nhiều bất cập, được giao cho nhiều cơ quan và mỗi cơ quan lại thực hiện được một số quyền khác nhau dẫn đến phân tán, không hiệu quả, nhất là trong quản lý, giám sát sử dụng vốn, đầu tư, nhân sự, tiền lương…
 
Cho đến nay, vẫn chưa có đơn vị đầu mối để theo dõi, giám sát và chịu trách nhiệm về kất quả hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà nước ở những phần việc được phân công thực hiện quyền của chủ sở hữu. Do đó, các cơ quan quản lý không nắm bắt và chấn chỉnh kịp thời các diễn biến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
 
Cách thức giám sát, đánh giá của chủ sở hữu còn mang tính hình thức, chủ yếu dựa vào báo cáo của các tập đoàn kinh tế nhà nước với tính chất báo cáo thống kê hơn là báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu của chủ sở hữu. 
 
“Cho đến nay chưa có đánh giá nào về việc hoàn thành nhiệm vụ được phân giao cho các tập đoàn kinh tế nhà nước”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhìn nhận.
 
Theo Anh Quân
 VnEconomy

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Tổng quan về tình hình thâm hụt ngân sách của các nước thuộc eurozone

Ngày đăng : 09/12/2011 - 11:31 AM
Rất ít nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu giữ được thâm hụt ngân sách ở mức cho phép trong những năm gần đây.
 
Lãnh đạo các nước thuộc Liên minh châu Âu hướng tới Brussels để nhóm họp. Thủ tướng Đức và Tổng thống Pháp đang cố gắng viết lại thỏa thuận của khu vực đồng tiền chung để đảm bảo nhóm nước có chính sách tài khóa yếu kém sẽ không bao giờ có thể làm gì để đe dọa đến sự ổn định của đồng tiền chung.
 
Chính phủ Đức và Pháp muốn các nước thành viên thuộc khu vực đồng tiền chung giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 3% GDP và muốn họ tuân thủ theo nguyên tắc tài khóa của Đức để không tái phạm việc vượt quá thâm hụt ngân sách cho phép thêm lần nữa.
 
Chẳng phải ai cũng đồng ý với biện pháp trên của chính phủ Đức. Trong những năm đầu mới gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu, chính phủ Pháp và Đức đã vi phạm mức thâm hụt ngân sách 3%.
 
Ngoài ra, việc không kiểm soát được tình hình tài khóa không phải nguyên nhân chính đằng sau khủng hoảng tại châu Âu: Tây Ban Nha và Ireland, hai nền kinh tế đang gặp rất nhiều vấn đề với khủng hoảng nợ hiện nay, từng có thặng dư ngân sách cao vào năm 2007.
 
Các chuyên gia lo ngại việc thắt chặt ngân sách quá mức ở thời điểm hiện nay sẽ cướp đi tăng trưởng kinh tế. Theo biểu đồ dưới đây, thâm hụt ngân sách của rất nhiều nước thuộc khu vực đồng tiền chung đã vượt quá mức giới hạn 3%.
 
 
Theo Ngọc Diệp
TTVN

Từ 2015 - 2020: Sẽ cổ phần hoá 27 tập đoàn, tổng công ty

Ngày đăng : 09/12/2011 - 9:21 AM

 

Tại Hội nghị tổng kết 10 năm sắp xếp, đổi mới DNNN 2010 - 2011 với sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ đã phát đi thông điệp sẽ đẩy nhanhcổ phần hóa (CPH) các DNNN thời gian tới. Với định hướng này, 27 tập đoàn,tổng công ty như: Dầu khí Việt Nam, Điện lực Việt Nam, Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam… sẽ thực hiện CPH trong giai đoạn 2015 - 2020.
 

                     

 

Không chuyển nhượng vốn nội bộ

Theo ông Phạm Viết Muôn, Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Phó trưởng Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển DN, tuy 10 năm qua, cả nước đã sắp xếp được 4.757 DNNN, trong đó cổ phần hóa 3.388 DN, nhưng nhìn chung, tiến độ sắp xếp DNNN chưa như mong muốn. Do vậy, để đổi mới có hiệu quả 1.309 DNNN còn lại, trong đó có 101 tập đoàn, tổng công ty và 2 NHTM do Nhà nước nắm 100% vốn, Chính phủ đang khẩn trương hoàn thiện và triển khai nhiều biện pháp mạnh.

Theo đó, đối với DN thành viên của các tập đoàn, tổng công ty, khi thực hiện CPH, có thể CPH đồng thời với công ty mẹ. Tùy điều kiện thực tế, có thể thực hiện CPH đồng thời với hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển giao vốn các tổng công ty, công ty trong cùng ngành nghề, lĩnh vực, để hình thành các tổng công ty đa sở hữu có năng lực mạnh hơn. Cùng với đó, chuyển toàn bộ DN do các tập đoàn, tổng công ty giữ 100% vốn sang các tập đoàn, tổng công ty có ngành nghề kinh doanh cùng với ngành nghề kinh doanh của DN chuyển giao. Biện pháp này có thể thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng DN hoặc chuyển giao nguyên trạng… Năm nay, sẽ hoàn thành việc phê duyệt phương án, sắp xếp, CPH các DNNN để triển khai sớm. Trong quý I/2012, các bộ phải trình Chính phủ phương án tái cơ cấu DNNN trong lĩnh vực do mình quản lý.

"Sắp tới sẽ đẩy mạnh CPH các DN mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn theo phương án đã phê duyệt. Công ty mẹ tại các tập đoàn, tổng công ty thực hiện việc bán vốn cho tổ chức, cá nhân bên ngoài, chứ không bán hoặc chuyển giao lại cho các đơn vị thành viên trong nội bộ. Đẩy mạnh việc niêm yết các tập đoàn, tổng công ty đã CPH trên TTCK trong và ngoài nước…", ông Muôn nhấn mạnh.

Những giải pháp mạnh trên nhằm thực hiện mục tiêu mà Chính phủ đề ra là từ năm 2015 - 2020 sẽ CPH 27 tập đoàn, tổng công ty, trong đó Nhà nước nắm cổ phần trên 65% hoặc trên 75% tại 11 DN như các tập đoàn: Dầu khí, Công nghiệp Than - Khoáng sản, Điện lực, Công nghiệp cao su, Bưu chính Viễn thông, Hoá chất…, đồng thời không giữ cổ phần chi phối tại 16 DN. Đến năm 2020, cả nước còn 17 tập đoàn, tổng công ty do Nhà nước nắm giữ 100% vốn như: Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, Tổng công ty Thuốc lá, Tổng công ty Đường sắt... Cùng với đó là 200 DN hoạt động trong các lĩnh vực độc quyền nhà nước, an ninh, quốc phòng và công ích.

 
'Làm nóng" TTCK để thúc đẩy CPH

Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn Hiếu đánh giá, tiến trình CPH các DNNN 10 năm qua đã góp phần quan trọng thúc đẩy TTCK phát triển. Việc niêm yết trên TTCK đã nâng cao tính minh bạch, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các DN, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của DN, nên đã tạo được niềm tin trong cộng đồng NĐT trong và ngoài nước. Đặc biệt, sự phát triển của TTCK đã làm tăng khả năng huy động vốn cho nền kinh tế, DN, đồng thời làm thay đổi phương thức quản lý, tổ chức sản xuất của các DN.

Vì mối quan hệ tác động qua lại giữa CPH với sự phát triển của TTCK, nên Bộ Tài chính cho rằng, cần sớm có chính sách tài chính, tiền tệ hợp lý để hỗ trợ DN vượt qua khó khăn hiện tại, cũng như TTCK, qua đó gia tăng thu hút NĐT tham gia thị trường. Đây là một trong những giải pháp để đẩy nhanh CPH các DNNN thời gian tới. Thực tế, sự trầm lắng kéo dài của TTCK thời gian qua đã gây nhiều bất lợi cho quá trình CPH các DNNN. Trong thẩm quyền của mình, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính đang và sẽ triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ TTCK sớm vượt qua khó khăn hiện tại. Tuy nhiên, để các giải pháp mang tính tổng thể và hữu hiệu hơn, các thành viên TTCK hy vọng Chính phủ sẽ sớm có giải pháp phục hồi TTCK lành mạnh, bền vững, qua đó góp phần đẩy nhanh tiến trình CPH.         

 

Theo  Hữu Hòe


ECB hạ lãi suất xuống mức thấp kỷ lục 1%

Ngày đăng : 08/12/2011 - 9:52 PM

Ngày 08/12, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) hạ lãi suất cho vay cơ bản bớt 0.25% xuống 1% đúng như dự báo chung. Đây là tháng thứ 2 liên tiếp ECB hạ lãi suất trong bối cảnh khủng hoảng nợ Eurozone tiếp tục tác động xấu đến nền kinh tế châu Âu.

 

                      

 

Như vậy ngân hàng này đã cắt giảm chi phí vay mượn tại cả hai cuộc họp kể từ khi ông Mario Draghi nhận chức Chủ tịch ECB từ ông Jean-Claude Trichet.

ECB đưa ra động thái trên khi các điều kiện kinh tế tại châu Âu ngày càng xấu đi đáng kể. Tại cuộc họp trước, Chủ tịch Mario Draghi dự báo nền kinh tế khu vực sẽ rơi vào suy thoái nhẹ.

Thị trường đang tìm kiếm các dấu hiệu liệu ECB có tiếp tục cắt giảm lãi suất trong các tháng tới.

Mối quan tâm của thị trường cũng sẽ tập trung vào những thay đổi trong chính sách của ECB, đặc biệt là liệu động thái hạ lãi suất có phải là một phần của chính sách tiền tệ thiên về tăng trưởng thay vì tập trung vào việc hạ thấp lạm phát.

ECB công bố quyết định của mình chỉ vài giờ trước khi các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) tổ chức cuộc họp thượng đỉnh tại Brussels nhằm thảo luận cách thức cứu đồng tiền chung châu Âu.

Dự kiến, Chủ tịch ECB Mario Draghi sẽ có cuộc họp báo định kỳ hàng tháng vào lúc 20h30 (giờ Việt Nam).

Cùng ngày, Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) giữ nguyên lãi suất ở mức 0.5% và quy mô của chương trình mua tài sản trị giá 275 tỷ bảng Anh (tương đương 432 tỷ USD). Được biết BOE đã giữ nguyên mức lãi suất 0.5% kể từ tháng 3/2009.

 

Theo Vietstock/MarketWatch/CNN Money


 


Câu hỏi tại Hội nghị CG

Ngày đăng : 08/12/2011 - 9:39 PM

“Hai mươi lăm năm trước, Việt Nam đã biến khủng hoảng thành cơ hội. Liệu Việt Nam có thể làm tương tự như vậy với bối cảnh và các vấn đề kinh tế như hiện nay hay không?” Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới Deepak Mishra đã đặt duy nhất một câu hỏi như trên khi kết thúc phần trình bày tóm lược về Báo cáo Phát triển Việt Nam 2012 tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) diễn ra đầu tuần này.

 

                             

 

Bản báo cáo đó mở đầu bằng cách trích dẫn lại quyết tâm chính trị cách đây 25 năm của Đại hội VI, khi Đảng “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, và nói rõ sự thật” và kết luận “các chủ trương, chính sách phải tuân theo nguyên tắc chỉ đạo: giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”. Ông Mishra nhận xét: “Có lẽ rất ít thành viên tham dự Đại hội Đảng khi đó hình dung được rằng, họ đang viết lên một trong những kịch bản chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường thành công nhất mà thế giới từng chứng kiến”.

Song, câu chuyện thành công của Việt Nam trong suốt hơn hai thập kỷ vừa qua nay đang đối diện với thách thức lớn do bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài, theo Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Victoria Kwakwa. Bà nói: “Tăng trưởng tín dụng hàng năm tới 30% trong suốt thập kỷ qua đã tạo ra tính dễ tổn thương cho nền kinh tế vĩ mô trong suốt bốn năm qua. Bên cạnh đó, những rủi ro trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và tài chính cũng ngày càng bộc lộ rõ”. Nhận xét của bà Kwakwa đề cập trực tiếp đến chương trình tái cơ cấu kinh tế được xác định tại Hội nghị Trung ương 3 tháng 10 vừa qua với ba trụ cột chính là đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại. Chương trình này đã được chọn làm chủ đề thảo luận chính cho hội nghị CG năm nay với tiêu đề: “Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế và giảm nghèo”.

Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một trong những chủ đề thật khó biện minh: 3.400 DNNN sử dụng nguồn lực nhiều nhưng kém hiệu quả. Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam, với 1 đồng vốn, các DNNN thu được vỏn vẹn 1 đồng doanh thu, trong khi các khu vực  kinh tế khác thu được 21 đồng. Với 1 đồng chi phí nhân công, DNNN thu được 1,7 đồng doanh thu, trong khi các khu vực kinh tế khác thu được 16,3 đồng. Bên cạnh đó, mối liên hệ giữa DNNN và các ngân hàng đã trở nên chằng chịt. Bản báo cáo này cho biết, số các ngân hàng cổ phần có vốn sở hữu nhà nước đang tăng dần lên, và có mối tương quan thuận giữa cấu trúc sở hữu của các ngân hàng với tỷ lệ cho vay đối với khu vực DNNN. Đến nay thì DNNN “đã quá lớn nên không thể thất bại, quá cồng kềnh nên không thể cứu nổi” như nhận định của ông Mishra. Đại diện thường trú Quỹ Tiền tệ quốc tế Sanjay Kalra bổ sung thêm: “DNNN đã trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Họ sử dụng phần lớn tín dụng cho nền kinh tế mà giờ đã khan hiếm, đầu tư trong nhiều trường hợp không hiệu quả, và nợ của các DNNN đã phủ bóng đen lên hệ thống tài chính và niềm tin thị trường”.

Bên cạnh đó, đầu tư công lớn mà thiếu hiệu quả cũng đang làm các nhà tài trợ quan ngại. Điều phối viên thường trú của Liên hiệp quốc Pratibha Mehta nhận xét, hệ quả là Việt Nam hiện đang gánh chịu mức thiếu hụt ngân sách 8% GDP từ năm 2009 và nợ công gia tăng lên  mức 57,3% GDP trong năm 2010, tuy nhiên, mức nợ công thực sự còn có thể lớn hơn do không bao gồm nợ của DNNN. Ông Sanjay của IMF cho rằng, chính sách tài khóa cần hỗ trợ chính sách tiền tệ nhiều hơn trong việc giảm lạm phát.

 

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tổng dư nợ tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng cho nền kinh tế tăng trưởng bình quân 29,4%/năm trong giai đoạn 2000-2010 và đến cuối năm 2010 tương đương khoảng 116% GDP. Đến tháng 9-2011, tổng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng gấp 14 lần so với năm 2000 và tổng tài sản của các tổ chức tín dụng tương đương 244% GDP năm 2010. Ông Sanjay Kalra tỏ ra lo ngại, những yếu kém trong hệ thống tài chính, mà những mầm mống của chúng nảy sinh trong những năm tăng trưởng tín dụng nhanh đã bộc lộ rõ và Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước đã phải can thiệp bằng cách hỗ trợ thanh khoản để bảo vệ các ngân hàng nhỏ và yếu.

Đối thoại lần đầu tiên với các nhà tài trợ trên cương vị người đứng đầu Chính phủ mới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng ông đã chăm chú nghe tất cả những góp ý như trên, và hơn nữa của các đối tác phát triển. Thủ tướng nhận xét, những chỉ số kinh tế vĩ mô gần đây như tăng trưởng kinh tế, bội chi giảm, dự trữ ngoại tệ tăng, tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng công nghiệp, thương mại và dịch vụ, nợ công trong ngưỡng an toàn,... thể hiện những tín hiệu tích cực trong nền kinh tế trong cuối năm 2011. Ông nói: “Theo đà này, chúng tôi cho rằng năm 2012 Việt Nam có khả năng kiểm soát lạm phát ở mức 9%. Hiện tại lãi suất tín dụng có xu hướng giảm, cùng với chỉ số CPI. Tỷ giá cơ bản được ổn định, và chúng tôi sẽ nỗ lực giữ giá tiền đồng”. Thủ tướng khẳng định Chính phủ sẽ tập trung tái cơ cấu kinh tế vào ba trọng tâm chính là đầu tư công, DNNN và hệ thống ngân hàng thương mại ngay trong năm tới. “Chúng tôi không đặt trọng tâm tăng trưởng cao trong năm tới để góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô và tiến hành tái cơ cấu kinh tế”, Thủ tướng nói.

Về phần mình, với tư cách là đồng chủ trì hội nghị, bà Kwakwa vẫn nhắc lại những yêu cầu của cộng đồng thế giới. “Tôi muốn nhấn mạnh rằng, thay đổi bên lề là không hiệu quả. Hành động cương quyết là cần thiết để thực sự rũ bỏ quá khứ và đưa ra một chặng đường mới để đặt Việt Nam vào vị trí mạnh mẽ hơn để thành công như một quốc gia có thu nhập trung bình... Bây giờ là lúc để hành động”.
Các nhà tài trợ đã cam kết dành gần 7,4 tỉ đô la Mỹ vốn ODA cho Việt Nam năm 2012, thấp hơn so với 7,9 tỉ đô la Mỹ trong năm 2011. Tuy nhiên, vấn đề giải ngân luôn là thách thức chính. ODA giải ngân chỉ đạt 3,2 tỉ đô la Mỹ trong 11 tháng đầu năm nay, và dự kiến đạt 3,65 tỉ đô la Mỹ trong cả năm, cao hơn 10% so với 2,941 tỉ giải ngân của cả năm ngoái.

Những chương trình, dự án vốn vay có giá trị lớn được ký kết trong năm 2011 bao gồm: dự án cấp nước và nước thải đô thị (200 triệu đô la); dự án truyền tải và phân phối điện 2 (180 triệu đô la); dự án quản lý thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (160 triệu đô la) và khoản vay chính sách phát triển chương trình cải cách đầu tư công lần 2 (350 triệu đô la) do WB tài trợ; dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn (II) (365,82 triệu đô la); dự án xây dựng cầu Nhật Tân (II) (304,25 triệu đô la) và dự án xây dựng cảng Lạch Huyện (272 triệu đô la) do Nhật Bản tài trợ; dự án xây dựng đường cao tốc Bến Lức - Long Thành (350 triệu đô la); dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh vùng núi phía Bắc (108 triệu đô la) và dự án xây dựng tuyến đường sắt thí điểm thành phố Hà Nội, đoạn Nhổn - ga Hà Nội (293 triệu đô la) do ADB tài trợ; dự án xây dựng tuyến xe điện ngầm số 2 tại TPHCM (300 triệu) do Đức tài trợ; dự án cầu Vàm Cống (200 triệu đô la) do Hàn Quốc tài trợ...

Theo Kinh tế Sài Gòn Online

 


Điều gì xảy ra nếu hạ trần lãi suất huy động?

Ngày đăng : 08/12/2011 - 9:35 PM

Lạm phát tháng 11 tiếp tục hạ nhiệt và góp phần đưa mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm dưới 18% khả thi hơn. Điều này dẫn đến một số tin đồn và dự đoán về một kịch bản Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành hạ trần lãi suất huy động khoảng 1-2% từ mức 14% hiện nay.

 

                            

 

Gần đây, đã xuất hiện những thông tin về khả năng hạ trần lãi suất huy động. Tại phiên họp báo Chính phủ diễn ra gần đây, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến cho biết, dù chưa thể khẳng định có giảm trần lãi suất hay không, song với nhiều tín hiệu và mục tiêu tích cực trong năm tới, thì hoàn toàn có cơ sở để thực hiện điều đó. Tất nhiên, giảm như thế nào, bao giờ, giảm bao nhiêu... hiện Ngân hàng Nhà nước chưa thể công bố được.

Để giúp độc giả có thêm một góc nhìn về những tác động có thể xảy ra nếu hạ trần lãi suất huy động, VnEconomy giới thiệu quan điểm riêng của hai tác giả có kinh nghiệm làm việc lâu năm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Lạm phát tháng 11 tiếp tục hạ nhiệt và góp phần đưa mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm dưới 18% khả thi hơn. Điều này dẫn đến một số tin đồn và dự đoán về một kịch bản Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành hạ trần lãi suất huy động khoảng 1-2% từ mức 14% hiện nay.

Tuy nhiên, ngay sau đó, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức khẳng định hiện tại chưa có chủ trương hạ trần lãi suất huy động. Điều này có nghĩa rằng quy định về trần lãi suất theo Thông tư số 30/2011/TT-NHNN tiếp tục có hiệu lực: lãi suất tối đa đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên ở mức 14%/năm.

Trước đó, thị trường tài chính dường như đã phản ứng tích cực ngay với dự báo này. Đã xuất hiện một số động thái hạ lãi suất cho vay tại một số ngân hàng lớn như BIDV. Trên thị trường trái phiếu, lãi suất trái phiếu cũng hạ nhẹ và xuất hiện cầu mua vào nhiều tại thời điểm có tin đồn. Đối với thị trường chứng khoán, đã xuất hiện một số phiên tích cực lên điểm theo sau tin đồn hạ lãi suất.

Song, theo đánh giá của chúng tôi, việc hạ trần lãi suất huy động, nếu xảy ra, sẽ không mang ý nghĩa tích cực như thị trường kỳ vọng. Mặt bằng lãi suất không thể hạ nhiệt từ các động lực “hành chính”, một khi cung tiền vẫn đang được siết chặt. Việc hạ trần lãi suất, nếu có, nên chăng được hiểu là Ngân hàng Nhà nước có thể đang thực hiện các mục tiêu khác, thay vì mục tiêu làm giảm lãi suất theo cách hiểu thông thường?

Một hệ quả có thể nhìn thấy ngay là, nếu hạ trần lãi suất, các ngân hàng nhỏ sẽ tiếp tục khó khăn hơn trong thanh khoản, nhất là khi phải cạnh tranh huy động với các ngân hàng lớn, trong bối cảnh “chiến dịch” sáp nhập và tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém đang được bắt đầu.

Chúng tôi xin đưa ra một số cơ sở để nhận định như sau.

Thứ nhất, điều kiện tiên quyết của việc hạ lãi suất là cung tiền phải tăng khi dấu hiệu lạm phát giảm. Tuy nhiên, lạm phát hiện nay vẫn ở con số xấp xỉ 18% khiến cơ sở của việc nới lỏng tiền tệ hay bơm tiền trở lại là gần như khó xảy ra. Lạm phát đang có xu hướng tăng chậm lại trong những tháng gần đây.

Tuy nhiên, kiềm chế lạm phát dứt điểm là nhiệm vụ quan trọng nhất trong năm 2012 và Việt Nam đang trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước không thể lơ là với lạm phát. Thời gian có thể nhìn thấy lạm phát ở mức an toàn có thể kéo dài thêm nhiều tháng nữa trước khi có những động thái nới lỏng hạ lãi suất.

Thứ hai, để lãi suất hạ theo tính thị trường, trên thị trường tiền tệ Ngân hàng Nhà nước phải cung tiền thêm cho nền kinh tế, hoặc trên thị trường hàng hóa tổng cầu phải giảm nhiệt. Tuy nhiên, các dấu hiệu này không hề được thấy trong thời gian qua. Ngân hàng Nhà nước vẫn rất thận trọng các hạn mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ. Không hề thấy biểu hiện nào của việc bơm tiền mạnh mẽ.

Trên kênh tín dụng ngắn hạn, quan sát thị trường mở (OMO) trong thời gian qua cũng cho thấy Ngân hàng Nhà nước không bơm tiền mạnh qua kênh này. Lượng bơm ra hầu như chỉ để giúp các ngân hàng giải quyết những khó khăn thanh khoản. Trước những động thái và đòi hỏi gắt gao của giới doanh nghiệp muốn có một mặt bằng lãi suất thấp, Ngân hàng Nhà nước vẫn rất cứng rắn và cương quyết nói không với nới lỏng tiền tệ trong lúc này.

Trong khi đó, thời điểm cuối năm là thời điểm sức cầu nền kinh tế đang rất “khát” tín dụng. Sức cầu trên thị trường hàng hóa không hề giảm nhiệt nếu không muốn nói là tăng mạnh mẽ. Do vậy, chưa có cơ sở để cho thấy một tín hiệu hạ lãi suất theo hướng tự nhiên.

Thứ ba, hạ lãi suất sẽ khiến các ngân hàng nhỏ gặp khó hơn. Trong tình trạng khó khăn về thanh khoản, việc hạ trần thêm nữa lãi suất huy động sẽ dẫn tới các ngân hàng nhỏ gần như không thể cạnh tranh được nữa với ngân hàng lớn. Việc thiếu vốn huy động sẽ dẫn tới khả năng bắt buộc phải sáp nhập, nếu không muốn xảy ra tình trạng không thể cứu vãn.

Theo dõi hoạt động ngân hàng trong 11 tháng qua, đặc biệt là cuối quý 3/2011 và 2 tháng đầu quý 4, việc huy động vốn từ thị trường dân cư không thuận lợi do không thể dùng lãi suất cao để làm công cụ cạnh tranh. Cùng với đó, giao dịch trên thị trường liên ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, lãi suất liên ngân hàng tăng cao, thanh khoản ngân hàng có biểu hiện căng thẳng.

Với những lý do trên, điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động, nếu như được thực thi, có lẽ sẽ không có ý nghĩa đối với khả năng hạ nhiệt mặt bằng lãi suất, ít nhất là trong bối cảnh hiện tại. Nó chỉ làm giảm sự cạnh tranh bằng lãi suất và ngăn dòng vốn từ ngân hàng lớn sang ngân hàng nhỏ, khiến khó khăn hay yếu kém của ngân hàng nhỏ được bộc lộ một cách rõ ràng hơn.

Đồng thời, xu hướng thâu tóm, sáp nhập, tái cấu trúc càng có khả năng thực hiện một cách mạnh mẽ hơn. Lộ trình tái cấu trúc ngân hàng thương mại sẽ được thúc đẩy và được coi là định hướng đúng đắn, mang tính dài hạn, nhằm giải quyết tận gốc những vấn đề bất cập khó khăn của ngân hàng, chứng khoán, bất động sản trong mối liên hệ mật thiết với nhau và có thể mang lại các tác động về mặt tâm lý tích cực với thị trường chứng khoán.

 

Theo VnEconomy.vn


 

Tin mới cập nhật