Làm sao lấy lại được tiền từ công ty chứng khoán?

Ngày đăng : 13/12/2011 - 12:03 AM

Sáng nay, những nhà đầu tư chậm chân đến đóng tài khoản tại Công ty Chứng khoán SME (SMES) đều phải chấp nhận một giải pháp được đưa ra: chuyển chứng khoán sang tài khoản mới mở Công ty Chứng khoán GoldenBridge (GBVS), trong khi tiền mặt thì vẫn phải chờ!

Theo thông tin từ một khách hàng của SMES, dĩ nhiên việc lựa chọn mở tài khoản tại công ty chứng khoán nào là tùy ý, nhưng SMES khuyên khách hàng nên “chạy” qua GBVS. Một số thông tin hậu trường cũng đồn đoán về khả năng GBVS sẽ rót vốn vào SMES. Chính bộ phận môi giới của GBVS cũng trực tiếp đến ngồi tại văn phòng của SMES để hỗ trợ khách hàng chuyển đổi thuận tiện.

Việc rút tiền mặt tại SMES lúc này là bất khả thi, ít nhất trong vòng vài ba tuần tới. Câu trả lời chung cho bất kỳ khách hàng nào muốn rút tiền là chờ đợi. Cũng theo nguồn tin trên, cách đây vài tuần, SMES còn cho phép rút một lượng nhỏ. Tuy nhiên, gần đây, bộ phận lưu ký của công ty đã trả lời thẳng: hết tiền mặt, khách hàng chỉ có thể rút tiền xếp hàng theo thứ tự trong vòng 2-3 tuần tới.

Việc một số công ty chứng khoán bị mất thanh khoản bây giờ không còn “nóng” nữa. Ngoài SMES cũng đã có thêm TAS bị cảnh cáo, dù chưa có thêm các thông tin liên quan đến mức độ nghiêm trọng về thanh khoản như SMES. Vấn đề còn lại là nhà đầu tư tiếp tục nắm đằng lưỡi trong các tình huống như thế này.

Rất đông các nhà đầu tư đều nghĩ rằng tiền gửi tại công ty chứng khoán là tiền của mình, và sẽ được đảm bảo an toàn dù công ty có mất thanh khoản. Tuy nhiên điều đó chỉ đúng trong tình huống công ty chứng khoán “chơi đẹp”, không lạm dụng được tài khoản của khách hàng, hoặc có một cơ chế như tách bạch tài khoản đến tận gốc tại ngân hàng để công ty không đụng chạm được đến tiền mặt của khách.

Rõ ràng số dư tiền mặt trên tài khoản vẫn báo đầy đủ, thậm chí vẫn giao dịch mua được nhưng khi chủ tài khoản đến rút tiền thì công ty lại không chi trả được. Tại sao tiền của mình lại “tuột” khỏi tay khổ chủ?

Câu trả lời là công ty chứng khoán đã “xào” tiền của khách hàng, quay vòng tiền cho mục đích khác. Phần lớn trường hợp là công ty sử dụng chính tiền của khách hàng này để cho khách hàng khác sử dụng qua hình thức đòn bẩy tài chính. Việc “xào” tiền này có thể gây rủi ro về thanh khoản cho bất kỳ công ty chứng khoán nào, dù lớn hay nhỏ nếu xảy ra ở cấp độ lớn. Dĩ nhiên mức độ rủi ro thường xuất hiện với các công ty nhỏ vì vòng quay không đủ nhanh.

Có hai tình trạng phổ biến lạm dụng tiền của khách hàng, là công ty cho một số khách VIP sử dụng đòn bẩy bằng chính tiền của khách hàng khác, và ứng trước trả tiền mua. Việc quản lý tài khoản tiền tổng tạo điều kiện thuận lợi cho mục đích này.

Không phải trường hợp nào công ty chứng khoán cũng sử dụng vốn ngân hàng hay vốn tự có để cung cấp dịch vụ hỗ trợ tài chính. Tổng tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn dễ lạm dụng nhất, dựa trên một tiền đề là tần suất mua, rút tiền của khách hàng ở một mức nào đó thấp hơn mức được lạm dụng. Mọi việc sẽ vẫn trôi chảy nếu vòng quay: lấy tiền của khách - hỗ trợ khách hàng khác - nhận tiền hoàn lại + phí diễn ra bình thường. Khi đó tiền của người này kịp quay vòng để bù cho tiền của người khác trong hệ thống.

Vì một lý do nào đó, vòng quay nói trên bị dừng lại, công ty sẽ lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản, phải bù đắp bằng nguồn nào đó. Chẳng hạn, đột nhiên khách hàng rút tiền nhiều hơn bình thường, trong khi dòng tiền thu về từ hoạt động hỗ trợ đòn bẩy chưa kịp trở lại; Hoặc, khách hàng đột ngột mua quá lớn vượt dự tính của công ty; Hoặc, nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy mất khả năng hoàn lại tiền, hoặc hoàn tiền bị thiếu, nói nôm na là lỗ mà không bù được đòn bẩy.

Trường hợp phổ biến là khách hàng dùng đòn bẩy thua lỗ, chạy làng bỏ lại cục nợ cho công ty. Công ty vẫn có khoản thế chấp là chứng khoán, nhưng giá trị của khoản thế chấp đó nếu chuyển đổi thành tiền mặt lại không đủ để trả lại khoản tiền đã lạm dụng của khách hàng khác. Chứng khoán thế chấp có thể bị mất thanh khoản không bán được, hoặc bán được nhưng lỗ quá nhiều.

Điều nguy hiểm là rủi ro này không chỉ xuất hiện với công ty chứng khoán nhỏ mà là với mọi công ty chứng khoán nếu quản lý vốn không tốt, lạm dụng vốn quá độ. Chỉ có quy trình giám sát nội bộ và sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức của các công ty mới kiểm soát được vấn đề này. Đáng tiếc là việc lạm dụng vốn của khách hàng đều xuất phát từ chủ trương của người quản lý công ty chứng khoán.

Một vấn đề nghiêm trọng nữa là khách hàng không được bảo vệ trong tình huống nói trên. Thật kỳ quái là tiền của mình mà mình không được sử dụng, trong khi phải cắn răng chịu đựng. SMES là ví dụ. Khách hàng không thể rút tiền của chính mình ra ngay lập tức mà phải chờ nhiều tuần. Ai sẽ gánh chịu rủi ro cơ hội của nhà đầu tư?

Các hợp đồng mở tài khoản đều quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Trong đó, khách hàng có quyền rút tiền theo yêu cầu và công ty phải trả. Tranh chấp xảy ra trước tiên là được dàn xếp để hòa giải, sau đó sẽ đưa ra tòa nếu không hòa giải được. Điều đó có nghĩa là nếu nhà đầu tư không rút được tiền ngay, họ có thể kiện công ty vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế lại không đơn giản như vậy. Đa số nhà đầu tư nhỏ lẻ vốn cỡ vài trăm triệu không thể tiến hành khởi kiện vì nhiều lý do, trong khi chính công ty cũng năn nỉ hết lời để khất lần.

Câu chuyện minh bạch và tách bạch tài khoản tiền gửi của khách hàng với công ty chứng khoán là câu chuyện đã kéo dài nhiều năm nay. Đa phần công ty chứng khoán chỉ dừng đến mức tách bạch tài khoản tổng, thậm chí nhiều công ty vẫn chưa đạt đến mức đó. Các quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính của công ty chứng khoán mới quản lý đến khả năng sử dụng vốn của công ty chứ chưa khống chế được việc công ty lạm dụng tiền của khách hàng. Hiện trung tâm lưu ký cũng chỉ mới khống chế được khối lượng chứng khoán đến từng tài khoản, chứ chưa giám sát được tiền mặt của nhà đầu tư.


Theo Trọng Nghĩa
VnEconomy

What a great reousrce this text is.
10/01/2012
What a great reousrce this text is.

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Nâng chất công ty kiểm toán: Minh bạch doanh nghiệp niêm yết

Ngày đăng : 12/12/2011 - 11:45 PM

Nhiều ý kiến cho rằng tái cấu trúc thị trường chứng khoán phải đi kèm tái cơ cấu công ty kiểm toán (CTKT). Báo cáo tài chính được kiểm toán vẫn có vấn đề về chất lượng.

Bởi các báo cáo tài chính dù đã được kiểm toán vẫn “có vấn đề” về chất lượng. Điều này gây ra rủi ro nhất định đối với các bên tham gia thị trường.

Trao đổi với ĐTTC, ông Bùi Văn Mai, Phó Chủ tịch thường trực Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), nhìn nhận sự yếu kém này phát xuất từ nhiều nguyên nhân, cần có giải pháp tổng thể để giải quyết.

Chất lượng chưa đồng đều

Ông đánh giá thế nào về số lượng, chất lượng các CTKT, kiểm toán viên (KTV) hiện nay?

Ông Bùi Văn Mai: - Trong 3, 4 năm trước, số lượng CTKT phát triển rất nhanh, có năm thành lập mới 15-20 công ty. Tuy nhiên, trong 2 năm gần đây, tốc độ phát triển đã giảm, có công ty mới nhưng cũng có những công ty phải ngừng hoạt động, hoặc phải sáp nhập do không có khách hàng, không có KTV.

Đến nay, số lượng CTKT khoảng 160-170, quy mô và chất lượng hoạt động nhìn chung có tăng. Có được điều này do hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đầy đủ nên việc lập, kiểm toán báo cáo tài chính nâng cao hơn. Hiện có khoảng 1.500/2.000 KTV có chứng chỉ hành nghề đang hoạt động.

Trong nghề kiểm toán, trách nhiệm của KTV chỉ là kiểm tra và xác nhận sự trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính chứ không có trách nhiệm phải phát hiện tất cả gian lận như cơ quan điều tra. Tất nhiên, trong quá trình kiểm toán, nếu KTV phát hiện ra các gian lận càng tốt. Nói như vậy để thấy nếu doanh nghiệp cố tình cung cấp số liệu sai trái, gian lận cũng rất khó để KTV đánh giá đúng.

- Ông thực sự yên tâm đối với chất lượng CTKT, KTV?

- Số lượng CTKT, KTV so với yêu cầu, theo tôi dù đã nâng cao nhưng vẫn chưa đủ so với đòi hỏi của thị trường và chất lượng cũng chưa hoàn toàn yên tâm. Đó là sự chưa đồng đều khi trình độ giữa các CTKT lớn và nhỏ còn khoảng cách.

Mặt khác, một số chính sách của Nhà nước vẫn chưa đồng bộ, rõ ràng, có những điều để phân định đúng - sai là không dễ khẳng định; trách nhiệm thuộc về ai cũng khó xác định. Chẳng hạn như việc xử lý về chênh lệch tỷ giá, đến nay Bộ Tài chính có các văn bản hướng dẫn khác nhau, doanh nghiệp, KTV không biết phải thực hiện thế nào cho đúng.

Trong số 160-170 CTKT, nếu nói về nhóm nổi trội, đẳng cấp có 10-15 công ty, khoảng 100 công ty mức độ trung bình, còn lại là các công ty yếu. Với những công ty yếu chuyện giải thể, sáp nhập cũng rất mong manh.

- Vậy 40-50 CTKT yếu tiến hành kiểm toán doanh nghiệp liệu có ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính, gây thiệt hại cho nhà đầu tư?

- Nước nào cũng có CTKT quy mô lớn, trung bình và nhỏ, bởi thị trường, khách hàng có sự phân cấp nhất định và ranh giới giữa các công ty có quy mô khác nhau có thể rất lớn.

Hiện 4 công ty quốc tế lớn có mặt ở Việt Nam (KPMG, Deloitte Touche Tohmatsu, PricewaterhouseCoopers và Ernst & Young) chiếm đến 70% thị phần, 15-20 công ty trong nước 20%. Thị phần còn lại thuộc các CTKT khác. Do vậy, nếu các CTKT nhỏ có sai cũng chỉ ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ.

Bài học lớn từ DVD

- Một trong những điển hình về chất lượng kiểm toán “có vấn đề” được giới đầu tư nhìn nhận từ trường hợp của DVD, dù được CTKT lớn là A&C và E&Y kiểm toán. Quan điểm của VACPA về sự việc này?


- Trong quá trình phân tích, đánh giá các báo cáo tài chính do 2 công ty trên kiểm toán, chúng tôi thấy việc tuân thủ quy trình kiểm tra, kiểm soát ở mức độ cao và họ đều đạt 94/100 điểm (A&C) và 96/100 điểm (E&Y), trong khi trên 80 điểm là tốt.

Thế nhưng nhiều nhà đầu tư khi đọc thường không chú tâm nhiều vào các đánh giá của kiểm toán nên nhận thức chưa đầy đủ.

Chẳng hạn, KTV có ý kiến “ngoại trừ những sai sót nêu trên còn lại là trung thực và hợp lý” nhưng nhiều khi nhà đầu tư chỉ tập trung câu “trung thực và hợp lý” mà không để ý đến hàng loạt dữ kiện “ngoại trừ”. Trong khi chỉ một điểm “ngoại trừ” đã phản ánh tổng thể của báo cáo.

Nếu người có chuyên môn, chỉ nhìn vào điểm “ngoại trừ” để đánh giá báo cáo tài chính có đáng tin tưởng hay không. Đó là những đánh giá chúng tôi đưa ra được sau khi tiến hành kiểm tra 2 CTKT sau vụ việc xảy ra với DVD.

Sau đó Bộ Tài chính đã yêu cầu đưa 2 doanh nghiệp trên vào diện kiểm tra năm nay. Vì thế, dù mức độ tuân thủ của họ cao và sai sót không đáng kể, nhưng 2 CTKT này vẫn chưa được chấp nhận kiểm toán công ty niêm yết.

Tôi cho rằng cần có cái nhìn công bằng với lĩnh vực kiểm toán và doanh nghiệp kiểm toán. Chẳng hạn, với E&Y hay các công ty kiểm toán quốc tế lớn đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của lĩnh vực kiểm toán tại Việt Nam.

Nếu chỉ vì một sự kiện liên quan đến DVD mà không chấp nhận họ đủ điều kiện kiểm toán công ty niêm yết là không công bằng. Một số chuyên gia quốc tế thường phàn nàn làm việc ở Việt Nam rất khó khăn, vì nhiều khi không biết làm như thế nào là đúng, sai do các quy định ở Việt Nam nhiều khi chưa rõ ràng.

- Vậy sai sót trong kiểm toán liệu có là kẽ hở để KTV bắt tay thông đồng với doanh nghiệp?


- Về nguyên tắc, KTV phải độc lập, khách quan, trung thực, còn trên thực tế có thể KTV thông đồng với doanh nghiệp. Nhưng có thể nói trường hợp này rất hiếm, vì nếu chỉ sai phạm 1 lần KTV không được tiếp tục hành nghề và ảnh hưởng lớn đến uy tín của CTKT.

Như E&Y là một trong 4 công ty lớn của thế giới, có hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ. Tất nhiên, họ cũng có thể bị sai sót. Nghề kiểm toán cũng như các nghề nghiệp khác, sai sót là điều không thể tránh, quan trọng là giảm thiểu rủi ro.

Thiếu chế tài mạnh

- Ông đánh giá thế nào về chất lượng CTKT sau khi VACPA tiến hành kiểm tra năm nay?

Ban hành nhanh, đồng bộ các văn bản hướng dẫn Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực từ ngày 1-1-2012. Bên cạnh đó, cần cơ cấu lại hệ thống quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này. Bởi dù luật đã có nhưng chưa quy định cụ thể thì UBCKNN, Bộ Tài chính, các cơ quan khác và VACPA phải làm gì? Trong cơ cấu đó cần có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau ra sao? Đó là những vấn đề cần làm rõ. Mặt khác, nên tăng thêm kỳ thi để tăng số lượng KTV, từ đó có sự sàng lọc về chất lượng, chế tài mạnh, buộc các CTKT nâng cao chất lượng hoạt động.

- Năm nay chúng tôi kiểm tra 30 công ty, kết quả: 5 công ty tốt, 18 đạt yêu cầu, 6 chưa đạt yêu cầu và 1 yếu kém. Những đơn vị chưa đạt yêu cầu và yếu kém phần lớn là công ty nhỏ và còn nhiều sai sót về việc tuân thủ quy trình kiểm toán, như bỏ qua thủ tục, bỏ bớt giai đoạn trong soát xét, sai sót về thủ tục hành chính.

Tuy nhiên, cũng phải thấy việc xử lý của các cơ quan quản lý với CTKT chưa mạnh nên vẫn xảy ra sai sót vào năm sau. Hàng năm, chúng tôi thường kiểm tra 1/3 số CTKT và thông thường sau 3-4 năm mới kiểm tra lại, nhưng các công ty yếu kém năm sau sẽ được tiếp tục kiểm tra. Qua đây cho thấy thị trường kiểm toán còn gặp nhiều khó khăn.

Đó là do yêu cầu của khách hàng, nhà đầu tư ngày càng cao, nhưng công tác kiểm toán chưa đáp ứng kịp thời, dẫn đến sự cạnh tranh về KTV, về giá phí kiểm toán. Bên cạnh đó, nghề kiểm toán đối mặt nhiều rủi ro nên nhiều KTV chuyển sang nghề khác.

- Vậy VACPA có kiến nghị gì đến cơ quan quản lý trong giải quyết những bất cập?

- Chúng tôi đã công khai trên website của Hội và sẽ báo cáo với Bộ Tài chính kết quả kiểm tra năm 2011. Thông thường, Bộ Tài chính cũng dựa vào kết quả kiểm tra của Hội để xử phạt. Tuy nhiên, những năm qua việc xử phạt chỉ ở mức độ phê bình, cảnh cáo, khiển trách. Một vài lần phát hiện KTV có sai sót nghiêm trọng đã đình chỉ hành nghề 1 năm.

Nguyên nhân một phần do văn bản pháp luật còn thiếu quy định cụ thể các tình tiết sai phạm, mức độ xử phạt trong lĩnh vực này. Năm tới, khi Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán sẽ dễ dàng hơn.

- Phải chăng chất lượng kiểm toán hiện nay chưa cao do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc chi phí kiểm toán quá thấp?

- Về nguyên tắc, phí là sự thỏa thuận giữa khách hàng với CTKT, Nhà nước không can thiệp. Theo tính toán của chúng tôi, mức chênh lệch giá phí bình quân giữa các công ty rất khác nhau. Một công ty trong nhóm 4 công ty lớn có giá phí bình quân 380 triệu đồng/hợp đồng kiểm toán, trong khi các công ty của Việt Nam phổ biến 35-50 triệu đồng.

Chúng tôi đã xây dựng bộ hồ sơ kiểm toán mẫu cho khoảng 2/3 CTKT của Việt Nam thực hiện với giá phí thấp nhất là 50-70 triệu đồng. Do vậy, nếu mức phí kiểm toán dưới 50 triệu đồng sẽ không thể thực hiện đầy đủ các thủ tục kiểm toán cần thiết.

- Xin cảm ơn ông.


Theo Hà My
Sài gòn đầu tư
 


NĐT “kêu trời” với chính sách thuế

Ngày đăng : 12/12/2011 - 9:04 AM

Đầu tư thua lỗ triền miên, nhưng vẫn phải móc tiền túi nộp thuế, NĐT tỏ ra ngán ngẩm với sự bất cập của Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động đầu tư chứng khoán.

 

 

 

Chán nản, ức chế và muốn quên đi… là cảm xúc của NĐT khi nói về tình trạng đầu tư thua lỗ, nhưng vẫn phải đem tiền nhà đi nộp thuế. Sau một thời gian "kêu" về tình trạng bất cập của chính sách thuế TNCN đối với hoạt động đầu tư chứng khoán nhưng cơ quan quản lý không có biện pháp khắc phục hữu hiệu, NĐT đã "dị ứng" với những câu hỏi về chuyện thuế khoá và cảm thấy như mình bị bỏ rơi.

"Tôi cảm thấy chán chường và tuyệt vọng vì sự vô lý của chính sách thuế, nhưng mãi không được khắc phục. Khi làm chính sách, cơ quan quản lý lúc nào cũng nói có biện pháp khuyến khích NĐT nhỏ lẻ tham gia thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ. Thế nhưng, sự vô lý có một không hai của chính sách thuế TNCN đang phủ nhận điều này…", NĐT mở tài khoản tại một CTCK niêm yết lớn nói.

Có một thực tế là, với cách khấu trừ thuế ngay khi thực hiện giao dịch, gần như chẳng NĐT nào để ý họ phải đóng bao nhiêu thuế sau mỗi thương vụ bán chứng khoán, huống gì đến việc tính số thuế phải nộp hàng tháng, quý.

Tuy nhiên, do phần mềm giao dịch trực tuyến của CTCK hiển thị chi tiết các dữ liệu về lỗ, lãi của từng mã chứng khoán và tổng danh mục đầu tư, nên một NĐT cho biết: "Gần đây nhất, do lo ngại thị trường mất thanh khoản, tôi đành bán một mã chứng khoán khi bị lỗ tới 37%. Đau nhất là số lỗ này chưa bao gồm khoản thuế bị khấu trừ. Xem lại sao kê trong 3 tháng qua, tôi không khỏi ức chế khi khoản lỗ lên tới trên 100 triệu đồng, trong đó có hơn 10 triệu đồng tiền thuế".

Trong khi hầu hết NĐT gần như không biết, thậm chí không muốn nhớ số thuế mình bị khấu trừ, thì các CTCK lại nắm số liệu này rất chắc. Lý do là bởi các CTCK hàng tháng phải thay NĐT thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế.

Phó tổng giám đốc một CTCK lớn đang niêm yết cho biết, 7 tháng đầu năm 2011, tổng số thuế mà Công ty khấu trừ của NĐT khoảng 14 tỷ đồng, nghĩa là trung bình khoảng 2 tỷ đồng/tháng. Từ tháng 8 đến tháng 11/2011, do Quốc hội cho phép giảm tỷ lệ khấu trừ thuế khi giao dịch từ 0,1%/giá trị giao dịch xuống 0,05%, nên số thuế mà Công ty khấu trừ trung bình khoảng gần 1 tỷ đồng/tháng.

Do quy định của Luật Thuế TNCN, nên bất kể đầu tư lỗ hay lãi, tất cả NĐT đều bị khấu trừ thuế khi thực hiện giao dịch. Điều đáng nói là qua bóc tách dữ liệu, Công ty nhận thấy, phần nhiều NĐT bị lỗ nhưng vẫn bị nộp thuế.

Kế toán trưởng một CTCK có trụ sở chính tại Hà Nội cho biết, trung bình số tiền mà NĐT bị Công ty khấu trừ để thực hiện nghĩa vụ thuế là khoảng hơn 60 triệu đồng/tháng, trong đó, đa phần NĐT thua lỗ, thậm chí lỗ nặng với tỷ lệ thâm vào vốn 30 - 40%. Do phần mềm giao dịch của Công ty được thiết kế có nhiều tiện ích, nên cả Công ty và NĐT đều dễ dàng nắm bắt được tổng lãi lỗ của danh mục đầu tư, số tiền thuế, phí bị khấu trừ…

Tại kỳ họp Quốc hội mới đây, việc sửa đổi Luật Thuế TNCN đã được đưa vào chương trình xây dựng luật năm 2012 của Quốc hội. Theo đó, tại kỳ họp diễn ra vào cuối năm 2012, Luật này sẽ được Quốc hội xem xét thông qua. Khi đó, hy vọng những vô lý của Luật Thuế TNCN đối với đầu tư chứng khoán hiện tại sẽ được khắc phục, bởi nhiều lần, lãnh đạo Bộ Tài chính khẳng định quan điểm, khi Luật được sửa đổi thì sẽ đảm bảo NĐT có lãi mới phải chịu thuế.

Về phương án sửa đổi Luật, trao đổi với ĐTCK ngày 9/12, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai, cho biết, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đang đôn đốc Tổng cục Thuế khẩn trương tổng kết việc triển khai Luật Thuế TNCN, để làm rõ những bất cập phát sinh trong thực tiễn, trên cơ sở đó, đề xuất phương án khắc phục cụ thể, nhằm đảm bảo tính khả thi cho Luật.

Riêng về những bất cập của Luật đối với lĩnh vực đầu tư chứng khoán, Tổng cục Thuế đang đánh giá khách quan, toàn diện để đề xuất giải pháp. Việc sửa đổi Luật Thuế TNCN sẽ có tính đến kinh nghiệm của thế giới.

 

Theo Hữu Đạo - ĐTCK


 


Nhà đầu tư “kêu” giá khởi điểm BIDV cao

Ngày đăng : 11/12/2011 - 12:01 PM
Nhiều nhà đầu tư cho rằng, giá khởi điểm 18.500 đồng/CP là cao, nhất là khi BIDV lựa chọn thời điểm IPO vào cuối năm trong bối cảnh thị trường chứng khoán gặp nhiều khó khăn.
 
 
Ngày 10/12/2011, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) đã tổ chức buổi giới thiệu IPO tại Hà Nội. Hơn 500 nhà đầu tư đã có mặt tại buổi giới thiệu này, phần nào chứng minh mức độ quan tâm tới cuộc đấu giá.
 
Theo ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐTV, Ngân hàng BIDV là ngân hàng "có duyên" với thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngay từ khi TTCK Việt Nam thành lập, BIDV đã tham gia hỗ trợ thị trường với tư cách Ngân hàng chỉ định thanh toán. BIDV cũng đã thành lập CTCK BSC, là một trong những CTCK đầu tiên tại Việt Nam. Ngoài ra, BIDV là ngân hàng đầu tiên nghiên cứu và phát hành thành công trái phiếu đủ tiêu chuẩn niêm yết trên HOSE theo chỉ đạo của Chính phủ vào năm 2000.
 
Ông Trần Bắc Hà chia sẻ với nhà đầu tư những yếu kém mà BIDV chưa đạt được. Thứ nhất, BIDV cũng như những ngân hàng thương mại khác ở Việt Nam đang dựa trên những nền tảng khách hàng vốn có, nhưng chưa nâng cao được năng lực cạnh tranh trong thời hội nhập WTO.
 
Thứ hai, cơ cấu khách hàng của BIDV chưa được hợp lí, mặc dù ngân hàng đã có những nỗ lực cải thiện trong những năm gần đây.
 
Thứ ba, vấn đề hiệu quả kinh doanh của các công ty trực thuộc, đây cũng là . Nữhng công ty trực thuộc này chủ yếu là những công ty mới ra đời nên chưa thực sự phát huy hiệu quả tối ưu. Đặc biệt là hoạt động công ty Leasing còn chịu hạn chế do chính sách.
 
Thứ tư, kì hạn huy động vốn khác với kỳ hạn cho vay, đây cũng là yếu kém chung của hệ thống ngân hàng hiện nay.
 
Thứ năm, năm 2010, BIDV kỳ vọng sẽ ngân hàng sẽ đạt đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế nhưng vẫn còn 1 số chỉ tiêu chưa đạt.
 
Thứ sáu, là rủi ro đến từ đạo đức nghề nghiệp của nhân viên BIDV. Mặc dù BIDV đặt ra nhiều quy định nhằm hạn chế rủi ro đạo đức nhưng thực tế chưa đạt được mục tiêu mong muốn.
 
Giá khởi điểm quá cao?
 
Nhiều nhà đầu tư cho rằng, giá khởi điểm 18.500 đồng/CP là hơi cao, nhất là khi BIDV lựa chọn thời điểm IPO vào cuối năm trong bối cảnh thị trường chứng khoán gặp nhiều khó khăn.
 
Ông Vũ Tiến Giao, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Licogi cho rằng: Tập đoàn này rất quan tâm đến cuộc IPO của BIDV, tuy nhiên mức giá này hiện hơi cao. Ông Giao đề xuất, BIDV nên tổ chức đấu giá nhiều lần, từ mức giá thấp đến cao dần thì sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn.
 
Ông Trần Bắc Hà chia sẻ, tiến trình cổ phần hoá của BIDV đã được thực hiện từ năm 2008, nhưng có nhiều vấn đề khách quan khiến quá trình này bị chậm lại. Đến nay, đã đủ điều kiện để cổ phần hoá. Tháng 4/2011, Chính phủ đã có chỉ đạo BIDV IPO trong năm nay.
 
“Chúng tôi cũng được nghe nhiều ý kiến đánh giá giá khởi điểm là cao, cũng có ý kiến cho rằng giá này là thấp” ông Hà nói và cho rằng, không ai dò được thị trường. Hai hôm nay TTCK đi xuống, nhưng từ giờ đến cuối năm thị trường có thể khởi sắc nếu Chính phủ có những hành động cụ thể như tuyên bố trước Quốc hội.
 
“Tôi kỳ vọng số lượng cổ phiếu của nhà đầu tư đăng ký tham gia đấu giá sẽ lớn hơn số lượng cổ phiếu phát hành, điều này sẽ quyết định sự thành công của cuộc IPO”, ông Hà nói.
 
Ông Nguyễn Đình Trọng, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc CTCP Đầu tư phát triển công nghệ Thăng Long (T-Tech) cho biết, sẽ tham gia cuộc đấu giá và mong muốn trở thành cổ đông của BIDV. Tuy nhiên, ông Trọng thắc mắc, BIDV có hỗ trợ tài chính để mua cổ phần của BIDV hay không?".
 
Trả lời thắc mắc này, đại diện BIDV cho biết, theo quy định, BIDV không được cung cấp dịch vụ tài chính để hỗ trợ nhà đầu tư mua cổ phần của mình. Nhưng với uy tín của BIDV, cùng với mối quan hệ với các tổ chức tín dụng, nhà đầu tư có thể cầm cố, nhận hỗ trợ tài chính để mua cổ phần của BIDV tại các tổ chức và định chế khác.
 
Trả lời câu hỏi của nhà đầu tư về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của BIDV, ông Trần Bắc Hà cho biết, ngân hàng này đang tiến hành đầu tư ra một số nước như: Lào, Campuchia, Cộng hòa Séc, Myanmar… Những hoạt động này bắt đầu có hiệu quả nhất định.
 
Một trong những vấn đề cũng được nhà đầu tư quan tâm là vấn đề nợ xấu của ngân hàng hiện nay. Ông Trần Bắc Hà chia sẻ: “Tôi có nghe 2 con số mà các tổ chức nước ngoài đánh giá chung về nợ xấu của hệ thống ngân hàng của Việt Nam là hơn 7% và 10%. Tuy nhiên, hiện nợ xấu của BIDV tính đến tháng 11 là 2,7% và đến cuối năm là 2,8%, dưới mức kế hoạch 3% mà ngân hàng đặt ra”.
 
Cụ thể, tại Lào, năm 2010 các hoạt động đầu tư của BIDV đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn (ROE) là 19%, dự kiến năm 2011 sẽ tương đương như năm trước. Tại Campuchia, năm 2010, ROE là 2%, dự kiến hết năm 2011 sẽ là 8%. Tại Séc, BIDV hiện đang có 3 công ty tài chính, dự kiến năm nay sẽ không lỗ và có lãi từ các năm tiếp theo.
 
Ông Hà dự báo, tình trạng nợ xấu trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung sẽ còn tăng mạnh trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, BIDV tự tin vào việc kiểm soát nợ xấu của mình nhờ áp dụng việc phân loại nợ theo Điều 7 Quyết định 493 sát với chuẩn mực quốc tế khắt khe.
 
Việc quản lý và xếp loại nợ xấu của BIDV được thực hiện chuyên nghiệp, tự động hóa. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn có tới 5 đơn vị quản lý tín dụng, giám sát chặt chẽ để việc quản lý khách quan. Do đó, nợ xấu của ngân hàng hiện nay là trung thực và khách quan, đồng thời, Ngân hàng cũng đã có những khoản dự phòng để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình.
 
Ngày 11/12, BIDV sẽ tổ chức cuộc giới thiệu cơ hội đầu tư tại TP. HCM. Đồng thời, BIDV cũng phối hợp với báo Đầu tư Chứng khoán điện tử (www.tinnhanhchungkhoan.vn) tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với độc giả của báo. Ngay từ bây giờ, nhà đầu tư quan tâm đến cuộc IPO này có thể chia sẻ ý kiến và đặt câu hỏi cho ban lãnh đạo BIDV.
 
Theo Quang Sơn 
ĐTCK

TTCK sụt giảm do mô hình tổ chức và vận hành

Ngày đăng : 10/12/2011 - 10:48 PM

Ông Lê Văn Châu, Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán Việt Nam (VASB) cho rằng, TTCK sụt giảm mạnh trong thời gian qua, bên cạnh nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế, còn do những yếu tố nội tại trong mô hình tổ chức và vận hành của TTCK.

Thứ nhất, dù thời gian qua Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đã có những giải pháp và kiến nghị phát triển thị trường, song hầu hết chỉ dừng lại ở mức đề xuất. Việc chậm triển khai đã tác động không thuận lợi đến thị trường và nhà đầu tư. Sự phối hợp giữa các ngành tài chính - ngân hàng để hỗ trợ cho TTCK chưa được như mong đợi. Công tác phát hành, tăng vốn và niêm yết của DN chưa có tiêu chuẩn nghiêm ngặt, việc thanh tra, giám sát... còn hạn chế.

Thứ hai, việc cho phép ra đời quá nhiều CTCK, công ty quản lý quỹ trong lúc TTCK Việt Nam còn nhỏ bé, đã dẫn đến tình trạng nhiều công ty lôi kéo khách hàng, vi phạm nguyên tắc nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp.

Thứ ba, TTCK là một ngành hết sức nhạy cảm và là thị trường của niềm tin. Song thời gian qua, nhiều luồng thông tin một chiều làm cho tâm lý của các nhà đầu tư bị hoang mang, dao động..., làm thị trường thêm khó khăn.

Từ những thực tế đó, theo chúng tôi, cần gấp rút thực hiện những giải pháp tái cấu trúc và cải tiến cơ chế hoạt động của TTCK Việt Nam, nhằm khôi phục lại lòng tin người đầu tư.

Mô hình thị trường

Trước hết, nên sáp nhập 2 Sở GDCK hiện nay thành 1 Sở GDCK đủ mạnh để cạnh tranh thu hút vốn với TTCK trong khu vực. Tiếp đó, cần cổ phần hóa Sở GDCK càng sớm càng tốt. Thời kỳ đầu, Nhà nước có thể nắm cổ phần chi phối, sau đó giảm dần, để đưa về nguyên tắc tự quản.

Sở GDCK ưu tiên bán cổ phần cho các CTCK, công ty quản lý quỹ, ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Từ đó, hình thành một hệ thống quan hệ nội tại trong hệ thống thị trường tài chính, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của các định chế tài chính với TTCK.

Cơ chế, chính sách

Thứ nhất, đối với nghiệp vụ phát hành và niêm yết: TTCK Việt Nam đã qua thời kỳ coi "tạo hàng" là nhiệm vụ trọng tâm. Vì vậy, đã đến lúc cần nâng điều kiện niêm yết và điều kiện phát hành chứng khoán theo hướng, để được phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phải có 3 năm liên tục gần nhất có lợi nhuận (hiện là 1 năm), tỷ suất lợi nhuận phải đạt một tỷ lệ phần trăm nào đó (ví dụ 10%) trên vốn điều lệ (hiện chưa có điều kiện này); phương án phát hành phải trên cơ sở một dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế...

Thứ hai, việc công khai, minh bạch hoạt động là tiêu chí cho mối quan hệ giữa công ty đại chúng với công chúng đầu tư. UBCK, Sở GDCK là cơ quan trung gian quản lý, giám sát để thông tin hai chiều đó hoạt động tốt nhất. Vì vậy, nội dung, kỳ hạn và phương thức công bố thông tin phải được chuẩn hóa. Công ty đại chúng phải thiết lập website theo mẫu thống nhất, do UBCK ấn hành. Tất cả thông tin của công ty phải được công bố qua website đó.

Thứ ba, trong cơ chế tổ chức và hoạt động của TTCK tập trung, CTCK là nhân tố chính yếu quyết định sự thành bại của thị trường. Để ngăn chặn sự xung khắc quyền lợi giữa nghiệp vụ tự doanh với nghiệp vụ môi giới, CTCK nên chia làm hai loại: công ty môi giới chứng khoán (không có nghiệp vụ tự doanh và bảo lãnh phát hành) và công ty kinh doanh chứng khoán (không có nghiệp vụ môi giới). Việc cơ cấu lại hệ thống CTCK theo giải pháp này sẽ đơn giản, hiệu quả hơn so với giải pháp giải thể, sáp nhập.

Thứ ba, DN niêm yết phải chịu trách nhiệm trước hết về các giao dịch nội gián. Khi mà công ty đại chúng còn sử dụng thông tin như là "món quà" cho một hoặc một nhóm nhỏ người đầu tư thì rất khó hạn chế giao dịch nội gián. Tuy nhiên, công ty niêm yết không chịu trách nhiệm về giá chứng khoán trên thị trường, vì giá cổ phiếu bị tác động bởi nhiều yếu tố. UBCK buộc DN phải giải trình lý do giá chứng khoán tăng, giảm liên tục 5 - 10 phiên là phi lý. Lẽ ra, đó là câu hỏi tổ chức niêm yết dành cho Sở GDCK, UBCK.

Thứ tư, lâu nay, ngân hàng chỉ định thanh toán là BIDV được hưởng nhiều lợi ích từ nghiệp vụ này, vì một nguồn vốn khổng lồ của TTCK được luân chuyển tại đây. Phải có chính sách điều tiết thu nhập từ nguồn lợi này. Do đó, nên giao nghiệp vụ ngân hàng chỉ định thanh toán về cho NHNN. Đây là một phương án tối ưu mà nhiều nước đã làm, vì NHNN là trung tâm thanh toán của nền kinh tế.

Vị thế của UBCK

Nhiệm vụ trọng tâm của UBCK hiện là quản lý, giám sát và xử lý, để tạo lập và duy trì một thị trường công bằng, minh bạch và phát triển. Về tính chất quản lý, trong chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tài chính và UBCK cho thấy, nhiều điều không phù hợp với nhau.

Phạm vi và đối tượng quản lý của UBCK đang ngày càng rộng hơn: hàng ngàn công ty đại chúng, hàng trăm CTCK, quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư, hàng triệu tài khoản của người đầu tư. Những vấn đề của UBCK là vấn đề của thị trường, đòi hỏi phải giải quyết nhanh. Trong khi đó, theo quy chế làm việc của Bộ Tài chính, UBCK đang như là một vụ chức năng với vai trò quản lý rất hạn chế, chủ yếu là đơn vị tham mưu.

Trong thời gian qua, việc chưa có những giải pháp kịp thời ứng phó với tình hình thị trường, cơ chế chính sách, không theo kịp thực tế... có một phần nguyên do từ cơ chế này. Do đó, đã đến lúc tách UBCK ra thành một cơ quan độc lập, có quyền quyết định các vấn đề của thị trường, có quyền ban hành văn bản hướng dẫn Luật cũng như việc thực hiện cổ phần hóa các DNNN.


Theo Đầu tư chứng khoán


BIDV và 6 điểm quan tâm của nhà đầu tư

Ngày đăng : 10/12/2011 - 9:29 PM
Nợ xấu, mức giá khởi điểm, rủi ro hoạt động, chính sách cổ tức… là những điểm nhà đầu tư quan tâm tại buổi công bố thông tin trước thêm IPO của BIDV.
 
 
Sáng nay (10/12), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam (BIDV) tổ chức buổi roadshow công bố thông tin trước thềm sự kiện phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) vào ngày 28/12 tới.
 
“Sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào” là khẳng định từ ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng Quản trị BIDV, mở đầu cho phần đối thoại với nhà đầu tư. Phần lớn các câu hỏi đặt ra tại đây đều đến từ các nhà đầu tư tổ chức.
 
Tựu trung, có 6 điểm quan tâm chính được đặt ra.
 
1. Nợ xấu của BIDV có “thực”?
 
Nhà đầu tư đặt vấn đề rằng con số nợ xấu hiện nay dưới 3% mà BIDV đưa ra có phản ánh thực sự chất lượng nợ của ngân hàng, có “thực” nếu xét theo các tiêu chuẩn quốc tế hay không.
 
Một lần nữa đại diện lãnh đạo BIDV khẳng định về chất lượng của con số đưa ra với công chúng, đi kèm với lưu ý rằng: việc phân loại nợ của ngân hàng này được thực hiện theo Điều 7 Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước, được kiểm toán xác nhận.
 
Ông Trần Bắc Hà cũng cho rằng, tiêu chuẩn phân loại đó là tiếp cận dần các chuẩn mực quốc tế và tốt hơn so với nhiều thành viên khác khi vẫn đang phân loại theo Điều 6 Quyết định 493. “Ví dụ, nợ của khách hàng chúng tôi xếp ở nhóm 2 nhưng ở nhiều ngân hàng khác thì phân loại vào nhóm 1. Ở đây có sự bấp cập trong hệ thống và bất bình đẳng giữa các ngân hàng”, ông Hà nói.
 
Phía BIDV cũng bổ sung thêm thông tin rằng, do trong 5 năm qua, tăng trưởng tín dụng bình quân của họ chỉ là 25%, trong khi bình quân hệ thống là 33%; tăng trưởng nợ thấp hơn nên có điều kiện để kiểm soát chất lượng thuận lợi hơn.
 
Hiện BIDV đã thực hiện trích dự phòng khoảng 140% so với số lượng nợ xấu. Và ông Hà nói rằng: “Chúng tôi yêm tâm”.
 
2. Sẽ có tác động từ chính sách?
 
Câu hỏi đầu tiên từ nhà đầu tư đặt ra là vì sao BIDV lại IPO vào thời điểm khó khăn này của thị trường? Một điểm đáng chú ý là nhà đầu tư cũng đặt vấn đề, về yếu tố thời điểm, BIDV có nhiều áp lực hơn so với hai “ông lớn” đi trước là Vietcombank và VietinBank, và từ đây dẫn đến bất lợi trong tương quan giá.
 
Như trả lời trước đó, ông Trần Bắc Hà cho rằng đây là quyết tâm của Chính phủ trong quá trình cổ phần hóa. Thực tế BIDV đã trình đề án từ tháng 9/2011, nhưng phải đến 28/11 Chính phủ mới quyết định.
 
Về yếu tố thời điểm, Chủ tịch BIDV lạc quan khi cho rằng đây chưa hẳn là thời điểm quá xấu của thị trường. Mặt khác, với một thị trường mà yếu tố tâm lý có tác động quan trọng, thì nhiều khả năng bối cảnh mà IPO chính thức diễn ra có thể sẽ có sự cải thiện chung. Đó là khả năng mà ông Hà tính tới, Chính phủ có thể đưa ra những chính sách quan trọng và tác động tốt tới thị trường.
 
3. Cơ sở nào cho mức giá khởi điểm 18.500 đồng?
 
Trước câu hỏi này, đại diện lãnh đạo BIDV giải thích: mức giá đó được xác định trên cơ sở giá trị nội tại của doanh nghiệp -  đã được tính toán và xác nhận của Kiểm toán Nhà nước.
 
Bên lề câu hỏi này, trước đó, lãnh đạo BIDV cũng cho rằng nếu là nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhìn vào mức giá trị doanh nghiệp đã công bố thì có thể đưa ra một tính toán tương đối sát với mức giá khởi điểm đã công bố đó.
 
Phía BIDV cho biết thêm, mức 18.500 đồng đã được tính toán thận trọng, có chiết khấu ở yếu tố thanh khoản khi chưa niêm yết chính thức trên sàn.
 
Liên quan đến yếu tố giá, một số ý kiến cho rằng tỷ lệ đưa ra đấu giá là quá nhỏ, chỉ 3%. Nếu một tỷ lệ lớn hơn, cung lớn hơn có thể sẽ tác động đến khả năng thành công cũng như yếu tố giá.
 
Về điểm này, tại cuộc họp báo vừa qua, lãnh đạo BIDV nhìn nhận ở sự tương quan khối lượng chào bán của hai thành viên đi trước là Vietcombank và VietinBank. Và đó là một tỷ lệ được cho là thích hợp với quy mô vốn của BIDV hiện nay cũng như trong tương quan quy mô của hai ngân hàng đó tại thời điểm IPO trước đây.
 
Còn phát biểu tại buổi roadshow, ông Phạm Viết Muôn, Phó trưởng ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, nêu quan điểm: chủ trương của Chính phủ là bán từng phần và bán dần dần…
 
4. Có tới 42 tổ chức tầm cỡ “đặt vấn đề”
 
Theo đề án cổ phần hóa, BIDV sẽ bán 15% cổ phần cho 1 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Điều mà nhà đầu tư quan tâm là các tiêu chí để xác định, cơ sở để tìm kiếm và lựa chọn.
 
Trả lời câu hỏi này, lãnh đạo BIDV cho biết các tiêu chí lựa chọn sẽ tuân thủ theo định hướng của Ngân hàng Nhà nước. Trong thời gian qua, BIDV đã tiếp nhiều tổ chức tới tìm hiểu và đặt vấn đề. Đó là 42 định chế tài chính tầm cỡ trên thế giới, theo lời lãnh đạo ngân hàng này. Qua đó, BIDV sẽ phối hợp với tổ chức tư vấn, nghiên cứu để đàm phán và lựa chọn. Dự kiến 9 tháng sau IPO công đoạn này sẽ thực hiện xong.
 
Một điểm được cho là thuận lợi khi BIDV lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là cơ chế giá được thực hiện theo thỏa thuận, chứ không nhất thiết phải “căn” theo mức giá hình thành qua IPO.
 
5. Tham gia tái cấu trúc không ảnh hưởng đến hoạt động
 
Nội dung này không đặt ra từ nhà đầu tư, nhưng ông Trần Bắc Hà chủ động thông tin với những khẳng định đáng chú ý.
 
Ông Hà cho biết, việc tham giá tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian tới, cụ thể là kế hoạch hợp nhất ba ngân hàng thương mại là SCB, TinNghiaBank và Ficombank hiện nay, là nhiệm vụ được giao. Các nguồn vốn cho kế hoạch tái cấu trúc này, hỗ trợ việc hợp nhất không nằm trong bảng cân đối kế toán của BIDV.
 
Theo đó, ông Hà khẳng định: “Việc tham gia tái cấu trúc hệ thống sẽ không làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính, đến kết quả kinh doanh của BIDV”.
 
BIDV sẽ tham gia quản trị, điều hành ngân hàng từ hợp nhất trước, trong và sau khi hợp nhất. Hiện 3 phó tổng giám đốc cùng 22 cán bộ của BIDV đã được điều động để trực tiếp khảo sát, tìm hiểu chi tiết và toàn diện tại các thành viên tham gia lần hợp nhất này.
 
6. Cam kết đảm bảo lợi ích cổ đông
 
Có những vấn đề trong hoạt động của BIDV có thể ảnh hưởng đến lợi ích của nhà đầu tư và cổ đông, được đặt ra tại buổi roadshow.
 
Cụ thể, bên cạnh lợi ích chung được ủng hộ, hoạt động xã hội của ngân hàng này cũng cần được xem xét sòng phẳng khi liên quan đến kết quả và hiệu quả kinh doanh. Điều này được nhà đầu tư đặt ra khi BIDV có lịch sử và truyền thống là một ngân hàng “bao cấp” và “phân phối” tín dụng; thường đi đầu trong các chương trình giảm lãi suất ủng hộ chính sách.
 
Sự rạch ròi ở đây là như vậy có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hay không, khi năm 2009 họ có tới 9 lần giảm lãi suất, năm 2011 đã có 3 lần và lãi suất cho vay mức cao hiện chỉ khoảng 16%/năm, trong khi nhiều nhà băng khác phổ biến từ 18% - 20%, thậm chí cao hơn.
 
Bên cạnh sự chia sẻ với các khách hàng, doanh nghiệp cũng như góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cũng là một nét văn hóa của doanh nghiệp, ông Hà khẳng định rằng, các hoạt động đó sau cổ phần hóa vẫn là trọng tâm của BIDV với một tỷ lệ phù hợp và không làm phương hại đến lợi ích các cổ đông.
 
Liên quan đến lợi ích cổ đông, tại buổi đối thoại trên, lãnh đạo BIDV đưa ra cam kết: sau cổ phần hóa, chính sách cổ tức sẽ được thực hiện theo hướng cạnh tranh so với các ngân hàng khác và sẽ không thấp hơn lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng tại các thời điểm xác định, và đó sẽ là mức tối thiểu.
 
Theo Minh Đức
VnEconomy

 

Tin mới cập nhật