Lãi suất chưa thể hạ dù lạm phát giảm

Ngày đăng : 26/12/2011 - 6:09 PM

"Việc giảm lãi suất tiền đồng có thể từ từ xem xét, đặc biệt là lãi suất cho vay để giúp nhiều doanh nghiệp tiếp cận vốn, phục hồi sản xuất..."

 

Trong cuộc trao đổi với báo chí gần đây, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho biết, lãi suất huy động trong hệ thống ngân hàng cuối năm tới chỉ dao động trong khoảng 10%/năm, bởi NHNN lấy mục tiêu khống chế lạm phát dưới 10% làm căn cứ cho điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2012.

Cuối năm là thời điểm nền kinh tế rất "khát" tín dụng

Theo các chuyên gia kinh tế, không phải ngẫu nhiên Thống đốc NHNN đưa ra nhận định trên bởi theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 18,13% so với tháng 12/2010. So với tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 chỉ tăng 0,53%. Điều này có nghĩa, chỉ số giá tiêu dùng đã được kiềm chế tốt dưới 1% trong 4 tháng trở lại đây.

Ông Nguyễn Hồng Long, Phó chủ tịch điều hành, Giám đốc Trung tâm kinh doanh và sản phẩm cấu trúc Techcombank nhận định, mặc dù lạm phát hiện nay vẫn xoay quanh con số 18% nhưng các chỉ số trên cho thấy, đây là một tín hiệu tốt để bắt đầu xem xét việc hạ lãi suất, bởi một trong những cơ sở quan trọng để điều chỉnh lãi suất chính là lạm phát.

"Việc giảm lãi suất tiền đồng có thể từ từ xem xét, đặc biệt là lãi suất cho vay để giúp nhiều doanh nghiệp tiếp cận vốn, phục hồi sản xuất. Quan trọng nhất là việc giảm lãi suất cần phải tùy thuộc vào từng đối tượng cụ thể, ưu tiên cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, không làm gia tăng lạm phát và đặc biệt là tránh hiện tượng đầu cơ", ông Long nói.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, có thể tính đến việc giảm lãi suất bởi những yếu tố cơ bản thuận cho việc hạ lãi suất đã rõ ràng, như CPI, lãi suất liên ngân hàng đều giảm. Tuy nhiên, cuối năm là thời điểm nền kinh tế đang rất "khát" tín dụng. Quan hệ cung - cầu không tương thích, lãi suất khó có thể giảm được nhiều. Nhưng để lãi suất giảm tiếp và bền vững thì phải phụ thuộc vào tình hình lạm phát trong quý I, II/2012, khi cung - cầu tín dụng đã bớt "kênh".

"Áp lực lạm phát năm 2012 không lớn bởi tăng trưởng tín dụng năm 2011 chỉ khoảng 12 -13%, ngoại trừ các yếu tố ngoại lực, khách quan như: thiên tai bão lũ, mùa màng thất bát, giá dầu, vàng, một số mặt hàng lương thực thực phẩm… trên thế giới tăng cao. Do vậy, kỳ vọng lạm phát của người dân năm 2012 sẽ ở mức khoảng 10%, tạo điều kiện để lãi suất có thể giảm xuống 12 - 13%/năm", TS. Lực nói.

Một chuyên gia kinh tế nhận định, không thể chỉ nói hạ lãi suất hay đưa ra các mệnh lệnh hành chính để hạ lãi suất, bởi đây là câu chuyện của thị trường. Do vậy, NHNN cần phải phân tích dựa trên các yếu tố như: thứ nhất, lạm phát giảm liên tục, bền vững, lâu dài; thứ hai, lãi suất liên ngân hàng giảm; thứ ba, giảm lãi suất ở mức nào để không tái lập lạm phát cao quay trở lại, nghĩa là lãi suất giảm không đẩy tín dụng lên quá cao; thứ tư, trạng thái thanh khoản được đảm bảo của các ngân hàng.

Quan trọng hơn cả, NHNN không bơm tiền mạnh qua thị trường mở trong thời gian gần đây. Lượng bơm ra hầu như chỉ để giúp các ngân hàng giải quyết những khó khăn về thanh khoản. Do vậy, các chuyên gia kinh tế nhận định, dù lạm phát đã có dấu hiệu giảm và kỳ vọng lạm phát cũng không cao, nhưng NHNN chưa nên hạ lãi suất thời điểm này mà để qua Tết nguyên đán. Quan trọng hơn cả, việc hạ lãi suất không nên quá nhanh, mà cần từng bước để đỡ các ngân hàng nhỏ gặp khó hơn về thanh khoản.

 

Theo Nhuệ Mẫn

 ĐTCK


 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Năm 2012, sẽ có quan niêm mới về tín dụng chứng khoán

Ngày đăng : 26/12/2011 - 10:58 AM

Dòng chảy vốn từ ngân hàng sang chứng khoán sẽ vẫn phải kiểm soát, nhưng sẽ theo cách hợp lý hơn, chứ không cứng nhắc như cách đưa CK vào lĩnh vực phi sản xuất thời gian qua.

 

Tín dụng chứng khoán, sẽ có cách hiểu mới

Các thành viên TTCK đang chờ đợi NHNN công bố một quan niệm mới về tín dụng chứng khoán, bắt đầu từ năm 2012.

Thông tin mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, ước tính dư nợ cho vay phi sản xuất đến cuối tháng 10/2011 là 352,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,8% so với tổng dư nợ, giảm 18,8% so với cuối năm 2010.

Trong đó, khối ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng TMCP có dư nợ phi sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay phi sản xuất của toàn ngành, lần lượt là 46,3% và 43,3%.

Nhìn vào thống kê trên có thể thấy, toàn ngành ngân hàng đã thực hiện quyết liệt và thành công chỉ đạo của Chính phủ, của NHNN trong việc giảm tỷ lệ cho vay phi sản xuất xuống dưới 16% vào cuối năm 2011. Tuy nhiên, xung quanh việc ghép tín dụng chứng khoán vào lĩnh vực phi sản xuất, dư luận vẫn không ngớt phản ứng rằng, đây là sự gán ghép phi lý, NHNN cần đưa ra một cách hiểu mới về dòng tín dụng vào TTCK bắt đầu từ năm 2012.

Trong một cuộc trao đổi với ĐTCK, ông Vũ Bằng, Chủ tịch UBCK cho biết, ông đã và sẽ kiên trì đề xuất với NHNN về việc tách tín dụng chứng khoán ra khỏi nhóm phi sản xuất, để cởi trói dòng vốn chảy vào chứng khoán. TTCK phát triển sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng và hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

Các chuyên gia thì cho rằng, TTCK không phải là một ngành mà là một môi trường, với sự tham gia của rất nhiều chủ thể thuộc rất nhiều ngành khác nhau. Vì thế, các chính sách điều tiết TTCK sẽ không thể đồng nhất như chính sách áp dụng với một ngành.

Trong khoản tín dụng ngân hàng rót vào chứng khoán có một phần dành cho thị trường thứ cấp (giao dịch), nhưng một phần lớn khác dùng để mua cổ phần mới của các DN, tức là trực tiếp góp vốn vào sản xuất - kinh doanh. Vì thế, nếu ghép tín dụng chứng khoán vào nhóm phi sản xuất là sai lệch.

Ghi nhận từ thị trường cho thấy, từ khi NHNN yêu cầu hạn chế tín dụng chảy vào chứng khoán, TTCK đã sụt giảm rất mạnh. Chính sự sụt giảm mạnh mẽ này lại khiến khối ngân hàng thắt chặt hơn nữa các dòng tiền vào chứng khoán theo nhiều cách, như quyết liệt thu hồi nợ, không cho vay mới đầu tư chứng khoán, không cho vay với tài sản thế chấp là chứng khoán….

Quá trình "càng giảm, càng thắt" này là một trong các nhân tố đẩy TTCK vào thế mất thăng bằng, rơi quá đà, đã không chỉ khiến giá cổ phiếu giảm hàng loạt, mà còn vô hiệu chức năng quan trọng nhất của TTCK là tạo kênh huy động vốn cho DN.

Mang những thắc mắc trên chia sẻ với Phó thống đốc NHNN Đặng Thanh Bình, ông cho biết, trong cách nhìn của ông, hệ thống ngân hàng giữ vai trò chu chuyển dòng vốn ngắn hạn, hệ thống TTCK chu chuyển vốn trung và dài hạn, nên về căn bản, không thể lấy vốn ngắn hạn đầu tư vào dài hạn được. Tuy nhiên, do cách hiểu về lĩnh vực phi sản xuất còn chung chung, nên trong thực thi chính sách, đã bộc lộ một số bất cập.

Theo ông Bình, dòng chảy vốn từ ngân hàng sang chứng khoán sẽ vẫn phải kiểm soát, nhưng sẽ theo cách hợp lý hơn, chứ không cứng nhắc như cách đưa chứng khoán vào lĩnh vực phi sản xuất thời gian qua.

Chưa hết năm 2012, dư nợ phi sản xuất đã giảm dưới 16%. Trên kết quả "đúng như kế hoạch" này, các thành viên TTCK đang chờ đợi NHNN công bố một quan niệm mới về tín dụng chứng khoán, bắt đầu từ năm 2012, trong mục tiêu chung phát triển hài hòa kênh dẫn vốn ngắn hạn và dài hạn, hỗ trợ thanh khoản và vực dậy chức năng huy động vốn dài hạn cho TTCK Việt Nam.

 


Theo Phạm Oanh
ĐTCK

 


Sẽ có "cơ hội vàng" từ chứng khoán và BĐS

Ngày đăng : 25/12/2011 - 1:18 PM

Từ cuối quý I đến quý II/2012 là giai đoạn thị trường chứng khoán sẽ đi vào chu kỳ cuối của suy thoái để chuẩn bị phục hồi; còn thị trường BĐS dự kiến phục hồi vào cuối quý III/2012 - quý II/2013.

 

Do vậy, với các nhà đầu tư trên thị trường BĐS và chứng khoán thì giai đoạn đầu năm 2012 sẽ là giai đoạn khó khăn nhất, sẽ có nhiều người chán nản bán rẻ tài sản hoặc buộc phải bán rẻ để trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, với những người có vốn thì đó lại là thời cơ rất hiếm gặp (5 - 10 năm mới có một lần), để mua tài sản đầu tư giá rẻ và thu lời cao sau 6 tháng - 2 năm, tùy theo mức độ phục hồi và phát triển của nền kinh tế.

Kênh tiết kiệm hiện nay vẫn được 14%/năm lãi suất, nếu gửi 6 tháng rồi đối chiếu với các tài sản đầu tư khác thì có khả năng lợi nhuận sẽ cao hơn đầu tư BĐS, vàng, còn chứng khoán thì có thể cao hoặc thấp hơn, tùy mã cổ phiếu đầu tư. Do vậy, nếu theo tiêu chuẩn so sánh tài sản đầu tư thì việc gửi ngân hàng với lãi suất 14%/năm là giải pháp an toàn. Đặt biệt, trong giai đoạn tới, lãi suất có thể giảm xuống đến 12%/năm, càng khiến kênh tiết kiệm vào thời điểm này hấp dẫn hơn. Với tiêu chí an toàn, những người có tiền nhàn rỗi nên gửi tiền tiết kiệm với lãi suất 14%/năm trong vòng 3 - 6 tháng, trước khi tham gia vào kênh đầu tư khác để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Một điểm cần lưu ý là dù nhà đầu tư chuyển từ tiền tiết kiệm vào BĐS và chứng khoán thì cũng không nên chuyển quá 70% số tiền hiện có. Các nhà đầu tư nên kiên trì theo đuổi chiến lược này, không nên nôn nóng tìm kiếm lợi nhuận cao qua những phi vụ đầu tư không được tìm hiểu kỹ. Tuy nhiên, giai đoạn xấu nhất của thị trường cũng chính là cơ hội rất hiếm có cho những người dám mạnh dạn đầu tư.

Khi đó, việc chọn lựa những DN sản xuất - kinh doanh có sản phẩm đang được tin dùng, doanh số vẫn giữ vững hoặc tăng trưởng và thị giá cổ phiếu đã xuống dưới 10 nghìn đồng sẽ hứa hẹn sinh lời đến 50 - 100% sau khi kinh tế đã ổn định và tăng trưởng (dự kiến từ 6 tháng đến 2 năm). Như vậy, kênh chứng khoán sẽ vẫn là kênh thích hợp nhất với người ít tiền, thích tìm kiếm lợi nhuận cao. Thời điểm thích hợp để mua chứng khoán là trong quý I/2012.

 

Theo Ths Đinh Thế Hiển - Chuyên gia tài chính chứng khoán, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tin học và Kinh tế

 Báo Xây Dựng


 


Năm tài khóa 2012, Nhật sẽ vay tiền nhiều chưa từng có

Ngày đăng : 25/12/2011 - 2:36 AM
Chính phủ Nhật Bản sẽ phát hành khối lượng trái phiếu mới trị giá 44.200 tỷ yen trong tài khóa bắt đầu từ tháng 4/2012, chất cao thêm "núi" nợ công hiện đã gần gấp đôi GDP.
 
Theo dự thảo ngân sách, Chính phủ Nhật Bản sẽ phát hành khối lượng trái phiếu mới trị giá 44.200 tỷ yen trong tài khóa bắt đầu từ tháng 4/2012, chất cao thêm "núi" nợ công hiện đã gần gấp đôi Tổng sản lượng quốc nội (GDP) của nước này và biến Nhật Bản thành quốc gia ghi nhận mức nợ công lớn nhất trong số các nước công nghiệp phát triển.
 
Dự thảo ngân sách mới cũng dự báo một thời kỳ khó khăn về tài chính đối với Nhật Bản, khi thu nhập từ thuế chỉ đạt trên 42.300 tỷ yen.
 
Trong khi đó, phí tổn vay mượn ước tính là gần 22.000 tỷ yen, tương đương 1/4 tổng ngân sách tài khóa mới và khoảng 51,8% thu nhập từ thuế.
 
Giới phân tích cho rằng ngân sách tài khóa mới của Nhật Bản giảm 2,2% so với ngân sách tài khóa hiện nay.
 
Tuy nhiên, báo chí địa phương khẳng định trên thực tế, đây là ngân sách lớn nhất từ trước đến nay, lên tới 96.000 tỷ yen, nếu tính cả một số kế hoạch quan trọng như tái thiết khu vực chịu tác động từ thảm họa kép động đất-sóng thần.
 
Tokyo dự định dành trên 3.700 tỷ yên cho kế hoạch khắc phục hậu quả thảm họa này, chưa kể gần 2.700 tỷ yen khác từ tiền phát hành trái phiếu cho mục đích tương tự.
 
Phát biểu với báo giới, Bộ trưởng Tài chính Jun Azumi cho biết cả ngân sách dự thảo và kế hoạch vay mượn đều đã "chạm ngưỡng," đồng thời thừa nhận Nhật Bản cần tiến hành cải cách triệt để vấn đề thuế và ngân sách để duy trì các dịch vụ công cộng và khôi phục lòng tin của cộng đồng quốc tế.
 
Ông cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng thuế tiêu dùng để đáp ứng quỹ lương hưu đang ngày càng tăng do tỷ lệ người lao động giảm./.
 
Theo Vietnamplus

Ngân hàng SCB hợp nhất tiến hành bầu HĐQT mới

Ngày đăng : 23/12/2011 - 4:44 PM

Hội đồng quản trị mới có 9 thành viên trong đó có 4 thành viên đến từ Ficombank; 2 thành viên đến từ SCB; 1 thành viên từ TinNghia Bank, 1 thành viên từ CTCP An Phú và 1 thành viên HĐQT độc lập.

Sáng nay Đại hội đồng cổ đông của hợp nhất Ngân hàng TMCP Sài Gòn đã diễn ra tại Tp. Hồ Chí Minh. Đại hội đã biểu quyết thông qua các vấn đề:

Tổng ngân sách hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát năm 2012 là khoảng 3% tổng chi phí hoạt động của năm 2012. Đại hội cổ đông ủy quyền cho HĐQT quyết định và điều chỉnh mức thù lao, thưởng và các lợi ích khác đối với thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát và ngân sách hoạt động của H ĐQT, BKS cho phù hợp nhằm đảm bảo công tác quản trị điều hành đạt hiệu quả cao nhất.
Ủy quyền cho HĐQT được quyết định một số vấn đề cơ chế chính sách hoạt động kinh doanh phát sinh, bao gồm:

(i) Quyết định các vấn đề cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý điều hành của SCB; (ii) Quyết định việc thành lập công ty con để thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật khi SCB có nhu cầu mở rộng lĩnh vực hoạt động; (iii) quyết định các vấn đề liên quan đến việc góp vốn, mua cổ phần hoặc rút vốn đầu tư tại doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác có giá trị từ 20% trở lên so với vốn điều của SCB;

(iv) Quyết định các vấn đề về đầu tư, mua, bán tài sản của SCB có giá trị từ 20% trở lên so với vốn điều lệ của SCB;

(v) Lựa chọn, đàm phán các điều kiện liên quan đến việc hợp tác, ký kết thỏa thuận/hợp đồng hợp tác với đối tác chiến lược trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện cho SCB phát triển mạnh hơn, góp phần khẳng định thương hiệu và nâng cao năng lực hoạt động cho những năm sau:

(vi) Quyết định việc tạm ứng cổ tức cho cổ đông trong năm (nếu có).

Thành viện Hội đồng Quản trị  của SCB hợp nhất nhiệm kỳ 2011 – 2017, bao gồm:

Bà Nguyễn Thị Thu Sương (Ficombank); Ông Vũ VănThành (TinNghia Bank); Ông Uông Văn Ngọc Ẩn (Ficombank); Ông Võ Thành Hùng (Chủ tịch HĐQT của CTCP An Phú) ; Ông Đinh Văn Thành (Ficombank) ; Ông Trần Thuận Hòa (Ficombank); ông Trầm Thích Tồn (SCB); Ông Phan Vĩ Dân (SCB) và 1 thành viên HDQT độc lập là Bà Nguyễn Thị Phương Loan.
 
Bà Nguyễn Thị Thu Sương  được bầu làm Chủ tịch HĐQT.
 
Ông Uông Văn Ngọc Ẩn được bầu là Tổng Giám đốc.
 
Các nội dung trình tại Đại hội đã được thông qua với tỷ lệ hơn 90%



Q. Nguyễn

Theo TTVN
 


Chuyên gia ngân hàng Standard Chartered: Chưa phải là thời điểm giảm lãi suất

Ngày đăng : 23/12/2011 - 3:42 PM
Ông Tai Hui cho rằng đợt giảm lãi suất đầu tiên sẽ được thực hiện trước quý II/2011, bởi nếu giảm quá sớm với mức giảm lớn, có thể thị trường sẽ hiểu sai thông điệp của cơ quan quản lý.
 
Thị trường mong đợi lãi suất cho vay sớm giảm, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn ông Tai Hui, Trưởng bộ phận Nghiên cứu Đông Nam Á của Ngân hàng Standard Chartered về vấn đề này.
 
Thị trường tiền tệ hiện nay vẫn sôi động với thông tin lãi suất sẽ thay đổi vào đầu năm 2012. Bình luận của ông về thông tin này?
 
Tôi kỳ vọng đợt giảm lãi suất đầu tiên sẽ xảy ra trong quý II/2012, nhưng khả năng là điều này có thể xảy ra sớm hơn một chút, tùy thuộc vào diễn biến lạm phát.
 
Tuy nhiên, vấn đề chủ chốt ở đây là chúng ta thường thấy Việt Nam thay đổi lãi suất ở mức 100 - 200 điểm phần trăm trong mỗi lần tăng hay giảm lãi suất trong quá khứ. Nhưng trên thực tế, chúng ta cần phải điều chỉnh mức lãi suất với mức thay đổi nhỏ hơn và thường xuyên hơn.
 
Do đó, mức 20 - 25 điểm phần trăm thay đổi sẽ phù hợp hơn, bởi theo tôi, chúng ta cần phải đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ dần dần nới lỏng các chính sách chứ không nới lỏng một cách đột ngột.
Động thái này sẽ giúp mọi người thấy rằng, NHNN không những quan tâm đến tình hình lạm phát mà còn rất cố gắng trong việc bảo vệ sự phát triển bền vững.
 
Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã bắt đầu tăng chậm lại trong vài tháng trở lại đây. Liệu thời điểm này đã hợp lý để NHNN điều chỉnh lãi suất?
 
Đúng là vấn đề chính hiện tại là: có nên làm điều đó ngay bây giờ không? Với tôi, câu trả lời là không. Bởi vì, tình trạng lạm phát mới được kiềm chế trong một vài tháng gần đây.
 
Tôi nghĩ nên chờ thêm 1 hoặc 2 tháng nữa, đặc biệt là khi thời điểm lễ, tết đang đến gần. Đây là thời điểm rất nhạy cảm với giá thực phẩm hoặc các loại hàng hóa tiêu dùng hàng ngày. Chúng ta nên đợi đến thời điểm sau Tết Nguyên đán để đưa ra quyết định này.
 
Tôi dự đoán, tính thanh khoản trên thị trường có thể sẽ căng hơn từ nay đến sau Tết. Nhưng đó không phải là lý do thuyết phục để giảm lãi suất. Trước tình hình đó, NHNN có thể bơm thêm tiền hoặc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để giúp giảm áp lực thanh khoản trong thời điểm này. Giảm lãi suất là một động thái có liên quan đến các chính sách kinh tế vĩ mô hơn. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở sẽ tốt hơn đối với áp lực thanh khoản cho việc tiêu dùng hàng ngày.
 
Việc giảm lãi suất theo từng bước nhỏ có thể sẽ giúp chuyển tải thông điệp một cách đúng đắn hơn. Bởi nếu NHNN đột ngột giảm tới 200 điểm phần trăm thì động thái này sẽ khiến thông điệp gửi ra thị trường bị sai lệch, rằng cơ quan quản lý đã bỏ qua những quan ngại về lạm phát mà lại quay trở lại nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng quá sớm.
 
Do đó, lời khuyên của tôi sẽ là giảm lãi suất ở từng bước nhỏ hơn, nhưng có thể giảm trong nhiều đợt hơn để có thể gửi được thông điệp đúng đắn ra thị trường.
 
Theo ông, NHNN nên xử lý câu chuyện lạm phát - lãi suất như thế nào trong năm 2012?
 
Tôi vẫn khẳng định rằng, trước tiên, NHNN cần đưa ra thông điệp rõ ràng về mối quan tâm hàng đầu của họ là bình ổn giá, tăng sự tín nhiệm của người dân vào đồng nội tệ. Một khi giá cả được ổn định, giá trị tiền đồng cũng sẽ ổn định hơn.
 
Nếu người dân thấy rằng, tiền đồng có thể bảo vệ giá trị tài sản của mình, thì lúc đó họ sẽ nắm giữ tiền đồng Việt Nam, thay vì ngoại tệ và vàng. Vì những lý do này, tôi cho rằng, việc tập trung bình ổn lạm phát là cốt yếu.
 
Thứ hai, như tôi đã nói ở trên, việc giảm lãi suất theo các bước nhỏ với tần suất thường xuyên hơn sẽ mang lại hiệu quả lâu dài hơn việc điều chỉnh quá mạnh trong một thời gian ngắn.
 
Quốc hội Việt Nam đã đề ra mục tiêu giảm tỷ lệ lạm phát xuống một con số trong năm 2012. Theo ông, mục tiêu này có khả thi?
 
Tôi nghĩ là có. Tỷ lệ lạm phát có thể giảm về một con số trong khoảng quý II/2012. Rõ ràng, nhiệm vụ hàng đầu Chính phủ cần làm vẫn là tập trung duy trì vào việc ổn định giá cả như hiện nay đang làm. Và vấn đề ổn định đồng nội tệ cũng quan trọng, bởi sự mất giá tiền đồng rõ ràng sẽ dẫn tới sự gia tăng lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát ở Việt Nam cũng chịu khá nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài, như giá lương thực phẩm và dầu mỏ trên thị trường thế giới.
 
Mặc dù vậy, tôi tin rằng, nếu giá lương thực phẩm và dầu mỏ sẽ không có những diễn biến bất thường, việc đưa lạm phát năm 2012 trở về một con số là có khả năng.
 
Tuy nhiên, giá trị đồng tiền Việt Nam có liên quan chặt chẽ đến tình hình thâm hụt thương mại. Dự báo của ông về yếu tố này trong năm 2012?
 
Theo dự đoán của chúng tôi, thâm hụt thương mại trong năm tới sẽ tương tự như năm 2011, khoảng 10 tỷ USD. Một trong những yếu tố tác động chính, theo tôi, là giá cả hàng hóa nhập khẩu sẽ tiếp tục xu hướng tăng.
 
Rõ ràng, giá thép và năng lượng tăng dần sẽ ảnh hưởng không tốt tới cán cân thương mại tại Việt Nam. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, trong vòng 2 - 3 năm trở lại đây, thâm hụt thương mại khá ổn định do bức tranh xuất khẩu của Việt Nam khá sáng sủa. Diễn biến thâm hụt thương mại chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của tôi năm 2012.
 
Ông nhận xét như thế nào về mục tiêu tăng trưởng GDP 6 - 6,5% của Việt Nam trong năm 2012? Theo ông, mục tiêu bao nhiêu phần trăm là phù hợp?
 
Theo dự báo của chúng tôi, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm tới cũng nằm trong khoảng 6 - 6,5%. Mục tiêu này không thực sự quá cao. Tuy nhiên, mối quan ngại của tôi là nguy cơ suy giảm kinh tế toàn cầu. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2012 cũng sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực.
 
Với bối cảnh kinh tế bên ngoài cũng như cấu trúc bên trong của kinh tế Việt Nam còn nhiều vấn đề như hiện nay, tôi nghĩ rằng, mục tiêu tăng trưởng khoảng 6% là phù hợp. Mức tăng trưởng này sẽ giúp nền kinh tế tiếp tục được cải thiện, đồng thời, không gây ra tình trạng lạm phát quá cao.
 
Theo Nhuệ Mẫn
ĐTCK

 

Tin mới cập nhật