Ngày đăng :
09/01/2012 - 10:14 AM
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương (Vietcombank) vừa có thông tin cơ bản về kết quả kinh doanh trong năm 2011.
Cụ thể, trong năm 2011, nguồn vốn huy động từ nền kinh tế của Vietcombank tiếp tục có sự tăng trưởng tốt với trên 17% so với năm 2010, đạt gần 242.300 tỷ đồng; trong đó huy động vốn từ dân cư tăng mạnh ở mức trên 23% so với năm trước, đạt gần 122.000 tỷ đồng.
Dư nợ tín dụng năm 2011 của Vietcombank đạt gần 210.000 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng được kiểm soát ở mức 18,5% và chất lượng tín dụng được duy trì, tỷ lệ nợ xấu được kiềm chế ở mức 2,1%.
Tính đến hết 31/12/2011, tổng tài sản của Vietcombank đạt hơn 369.200 tỷ đồng, tăng 20,3% và vốn chủ sở hữu đạt gần 29.200 tỷ đồng, tăng hơn 8.500 tỷ đồng so với năm 2010; lợi nhuận hợp nhất đạt 5.700 tỷ đồng, tăng 4,0% so với năm 2010 và vượt kế hoạch đề ra; ROE đạt gần 17,5% và ROA đạt gần 1,3%.
Về dịch vụ, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua Vietcombank trong năm 2011 tăng 25,2% so với năm 2010 và chiếm 19,2% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước. Kinh doanh thẻ tiếp tục khẳng định vị thế số một trên thị trường thẻ Việt Nam; doanh số thanh toán thẻ quốc tế đạt mức kỷ lục gần 1 tỷ USD, tăng hơn 30% so với năm 2010; doanh số thanh toán thẻ nội địa Connect24 đạt gần 900 tỷ đồng, tăng gần gấp hai lần so với năm 2010; doanh số sử dụng thẻ tín dụng quốc tế do Vietcombank phát hành đạt hơn 4.600 tỷ đồng, tăng 43% so với năm trước. Doanh số chuyển tiền kiều hối đạt 1,43 tỷ USD, tăng hơn 25% so với năm 2010. Tổng doanh số mua bán ngoại tệ trong năm qua được Vietcombank duy trì ở mức xấp xỉ 34 tỷ USD.
Năm 2012, Vietcombank đặt mục tiêu kiểm soát mức tăng từ 15 - 17% đối với dư nợ cho vay khách hàng và phấn đấu đạt mức tăng từ 18 - 20% chỉ tiêu huy động vốn từ nền kinh tế; lợi nhuận trước thuế dự kiến chỉ tiêu là 6.500 tỷ đồng; ROE đạt mức 15% và ROA đạt 1,22%, nợ xấu kiểm soát dưới mức 2,8%.
Theo Quỳnh Trang
VnEconomy
|
Ngày đăng :
05/01/2012 - 9:50 PM
Ngày 5/1, tại Hà Nội, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2012.
Đến cuối năm 2011, tổng tài sản của Vietinbank đạt 460.421 tỷ đồng, tăng 25,4% so với đầu năm; tổng nguồn vốn huy động đạt 422.955 tỷ đồng, tăng 24,4%% so với đầu năm; dư nợ cho vay và đầu tư đạt 430.360 tỷ đồng, tăng 24,8% so với năm 2010; nợ xấu ở mức 0,74%/tổng dư nợ; lợi nhuận trước thuế đạt 8.105 tỷ đồng, tăng 76% so với năm 2010 và đạt 158,9% kế hoạch Đại hội cổ đông; tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) là 25,4%, tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA) là 1,96%; cổ tức năm 2011 chi trả 20%.
Nhận định được tình hình năm 2012 là năm tiếp tục khó khăn với thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam. Hội đồng Quản trị, Ban lãnh đạo VietinBank đã đặt ra các chỉ tiêu phấn đấu là tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng, chiếm lĩnh thị trường trên cơ sở đảm bảo an toàn, bền vững.
Một số chỉ tiêu tài chính cụ thể trong năm 2012 của VietinBank như sau: Tổng tài sản tăng 20%; nguồn vốn huy động tăng 25%; dư nợ cho vay tăng 20%; nợ xấu dưới 3%; lợi nhuận trước thuế tăng 20%; nộp ngân sách 2.600 tỷ đồng; tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh đạt 10%; vốn điều lệ đạt 30 ngàn tỷ đồng; chỉ số CAR khoảng 10%.
Với mục tiêu đề ra năm 2012, Vietinbank dự kiến lợi nhuận trước thuế sẽ đạt 9.726 tỷ đồng.
Được biết, ngày 28/12/2011, VietinBank đã chính thức tăng vốn điều lệ đợt II/2011, số vốn điều lệ mới gần 20.300 tỷ đồng, tăng 33% so với 2010.
Chủ tịch Hội đồng quản trị VietinBank Phạm Huy Hùng cho biết, VietinBank sẽ tập trung thực hiện tái cấu trúc toàn diện ngân hàng theo hướng hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đổi mới, nâng cấp công tác tổ chức, quản trị điều hành đồng thời đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu tư và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, kiểm soát nợ xấu.
Theo Công Minh
NDHMoney
|
Ngày đăng :
05/01/2012 - 9:09 PM
Qua kế hoạch chuyển nhượng, Eximbank sẽ thay thế ANZ trở thành cổ đông lớn của Sacombank với tỷ lệ sở hữu là 9,73%.
Ngân hàng Nhà nước vừa chấp thuận việc Ngân hàng ANZ chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần (9,6% vốn điều lệ) tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank).
Qua kế hoạch chuyển nhượng này, Eximbank sẽ trở thành cổ đông lớn của Sacombank với tỷ lệ sở hữu là 9,73%.
Trên thị trường, hoạt động chuyển nhượng cổ phần là bình thường. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra ở sự kiện này là vì sao Eximbank quyết định đầu tư và nắm một tỷ lệ sở hữu khá lớn như vậy trong bối cảnh một số cổ đông lớn tại Sacombank lần lượt thoái vốn trong thời gian qua.
Kế hoạch thoái vốn của ANZ tại đây không mới, đã được đề cập trong hơn một năm trở lại đây. Kế hoạch này cũng được xem là bình thường khi hai bên đã có sự gắn bó trong một thời gian dài, ANZ cũng đã thành lập ngân hàng con 100% vốn trực thuộc tại Việt Nam.
Cùng với ANZ, thời gian qua thị trường cũng đã đón nhận thông tin về kế hoạch thoái vốn của Dragon Capital tại Sacombank (hơn 8%). Đây cũng được xem là bình thường khi quá trình nắm giữ và gắn bó đã được 10 năm liền, Dragon Capital cần cơ cấu lại danh mục theo chiến lược đầu tư mới.
Hiện tại, một cổ đông lớn khác là Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) cũng vừa thông báo và đang trong kế hoạch thoái toàn bộ vốn tại Sacombank với 3,924%.
Trước đó, trong năm 2011, những xáo trộn trong cơ cấu cổ đông và các hoạt động bán ra - mua vào quy mô lớn tại ngân hàng này là một dòng chảy thông tin nổi bật trên thị trường.
Trong bối cảnh như vậy, việc nhận chuyển nhượng nói trên của Eximbank thu hút sự chú ý của công chúng đầu tư. Nhưng nếu hỏi ngược lại, vì sao các cổ đông lớn đó phải thoái vốn, thì thương vụ này không phải là một sự “ngược dòng”, thậm chí có thể được chú ý ở yếu tố cơ hội…
Trao đổi với VnEconomy, ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Eximbank, cho rằng đó là một hoạt động đầu tư bình thường; Eximbank cần đa dạng hơn sự phân bổ vốn thay vì chỉ tập trung cho tín dụng, nhất là sau khi năng lực tài chính của ngân hàng đã được nâng cao trong hai năm gần đây.
Cụ thể, trong hai năm gần đây, Eximbank trở thành một trong những ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu hàng đầu trong khối ngân hàng thương mại cổ phần, hiện đạt trên 13.500 tỷ đồng; tổng tài sản cũng ở nhóm dẫn đầu trong khối với khoảng 183.000 tỷ đồng tính đến thời điểm 31/12/2011.
“Sau khi củng cố năng lực tài chính, cân đối các nguồn vốn và Eximbank có nhu cầu mở rộng danh mục đầu tư. Bản thân Eximbank trong những năm qua cũng đã cơ cấu lại danh mục của mình. Điều đó là bình thường và kế hoạch đầu tư vào Sacombank cũng là bình thường. Trong kế hoạch này, chúng tôi lựa chọn điểm đến gần với mình, am hiểu ở lĩnh vực đó và ở đây là lĩnh vực ngân hàng”, ông Phước nói.
Với Sacombank, ông Phước cho biết, quyết định đầu tư được đưa ra trước hết có từ định hướng lựa chọn lĩnh vực, thứ nữa là Eximbank đánh giá cao tiềm năng hoạt động và phát triển của Sacombank.
Kết thúc năm 2011, Sacombank ước đạt 2.740 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Đây cũng là một ngân hàng mạnh trong khối cổ phần khi có vốn chủ sở hữu đạt tới 14.224 tỷ đồng; tổng tài sản đạt khoảng 140.000 tỷ đồng; đáng chú ý là tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm khoảng 0,56% tổng dư nợ.
Với Eximbank, ngoài sự tăng cường năng lực tài chính nói trên, 2011 cũng là một năm thành công khi có lợi nhuận trước thuế ước đạt tới 4.056 tỷ đồng. Đây cũng là con số hàng đầu về giá trị tuyệt đối trong kết quả lợi nhuận của khối ngân hàng thương mại cổ phần trong năm qua.
Với thị trường, qua kế hoạch chuyển nhượng trên, năm 2012 sẽ có thêm sự đồng hành giữa hai ngân hàng thương mại có quy mô lớn.
Theo Minh Đức
VnEconomy
|
Ngày đăng :
04/01/2012 - 9:51 PM
Câu chuyện đằng sau những khoản lãi lớn của các ngân hàng - những khoản lãi làm doanh nghiệp khác chỉ trích nhưng cũng chưa làm hài lòng cổ đông các ngân hàng.
Từ câu chuyện lợi nhuận kỷ lục của ngân hàng
Bất chấp nền kinh tế trong năm 2011 vẫn còn nhiều khó khăn, các ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được mức lợi nhuận cao từ hàng trăm đến hàng ngàn tỉ đồng, tùy theo quy mô từng ngân hàng. Điều này đã không thể tránh khỏi những chỉ trích từ nhiều phía, đặc biệt là những doanh nghiệp đang gặp khó khăn, thua lỗ hoặc thậm chí phá sản. Như nhiều ý kiến đã phân tích, mặc dù mức lợi nhuận, nếu nhìn vào con số tuyệt đối, thì có vẻ rất cao nhưng nếu so sánh với quy mô tài sản (ROA) và vốn tự có (ROE) của ngân hàng thì chưa hẳn là quá cao.
Điều đáng ngạc nhiên là, mặc dù có mức lợi nhuận cao nhưng xem ra vẫn chưa thể làm hài lòng các cổ đông ngân hàng và nhà đầu tư. Bằng chứng là giá cổ phiếu của các ngân hàng trên thị trường chứng khoán hiện vẫn ở mức rất thấp và cũng chưa phải quá hấp dẫn so với cổ phiếu các nhóm ngành khác như vài năm trước đây.
Điều này cho thấy rằng, thước đo mà nhà đầu tư đánh giá hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng không phải chỉ có lợi nhuận mà còn là rủi ro. Mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro được thể hiện thông qua giá trị của ngân hàng trên thị trường, tức thị giá cổ phiếu của ngân hàng.
Nếu có ai đó tin rằng, lợi nhuận của ngân hàng cao một cách vô lý trong điều kiện các doanh nghiệp đang khốn đốn thì một lẽ tự nhiên là họ sẽ bán cổ phiếu doanh nghiệp hoặc/và đem tài sản hiện có để mua cổ phiếu ngân hàng. Trong thực tế đã không có một làn sóng như vậy diễn ra mỗi khi các ngân hàng công bố báo cáo tài chính. Chắc chắn rằng các nhà đầu tư vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng lợi nhuận của ngân hàng không phải “của trời cho” mà lợi nhuận đó đang phản ánh những rủi ro mà ngân hàng đang gặp phải.
Nhận dạng vấn đề rủi ro của ngân hàng
Có quá nhiều rủi ro mà các ngân hàng đang phải đối mặt như rủi ro lạm phát, thị trường, lãi suất, hối đoái, tái đầu tư, tác nghiệp... nhưng nổi bật trong năm 2011 cần phải kể đến rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và đặc biệt là rủi ro chính sách.
Rủi ro tín dụng
Như đã nói, thước đo lợi nhuận, ngay cả khi có bộ tiêu chuẩn kế toán tốt, vẫn không thể lượng hóa hết được hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, nó không thể phản ánh hết được tất cả các loại rủi ro mà ngân hàng đang gặp phải. Lợi nhuận mà ngân hàng công bố hiện nay có phần phản ánh rủi ro tín dụng thông qua các khoản trích lập dự phòng.
Tuy nhiên, ngay chính tiêu chuẩn và điều khoản trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định hiện hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết, không phản ánh được thực chất các nguy cơ rủi ro tín dụng mà ngân hàng đang gặp phải. Chẳng hạn như các khoản cho vay khi được bảo đảm bằng 100% giá trị tài sản cũng không đồng nghĩa với việc là sẽ không có rủi ro tín dụng. Tài sản đảm bảo được định giá vào thời điểm cấp tín dụng và để làm cơ sở quyết định mức cho vay thay vì là thời điểm trả nợ và để làm cơ sở hoàn trả được nợ vay.
Hơn nữa, với các khoản nợ được bảo đảm 100% giá trị tài sản thì mức trích lập dự phòng rủi ro gần như bằng không, bất kể mức độ và xác suất xảy ra rủi ro tín dụng như thế nào. Hơn nữa, trong điều kiện thị trường có nhiều biến động thì việc giá trị tài sản giảm sâu hoặc kém thanh khoản là hoàn toàn có thể xảy ra. Đối với các ngân hàng Việt Nam, khi nhóm tài sản đảm bảo hiện nay chủ yếu là bất động sản thì việc thị trường bất động sản xấu đi vừa không chỉ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng là các nhà đầu tư bất động sản mà còn là các khoản nợ được thế chấp bởi bất động sản (bất động sản dân cư). Trong những trường hợp như vậy, việc đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo cũng như việc thực hiện bút toán điều chỉnh theo giá trị trường (marking-to-market) là rất cần thiết nhưng thực tế đã bị bỏ qua hoặc không được tiến hành một cách thực chất và đúng bản chất của rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng ở các ngân hàng Việt Nam còn do sự gia tăng của hiện tượng bất cân xứng thông tin trong bối cảnh bất ổn vĩ mô mà biểu hiện là hành vi lựa chọn ngược (adverse selection). Trái với quan điểm thông thường cho rằng khi lãi suất cho vay cao sẽ giúp loại bỏ các dự án tồi có suất sinh lợi kém, đồng thời chọn lọc những dự án tốt với mức sinh lợi cao.
Đáng tiếc, trong điều kiện Việt Nam, khi lãi suất cho vay quá cao thì chính những con nợ rủi ro mới là đối tượng sẵn sàng tiếp cận vốn vay chứ không phải là con nợ an toàn. Nghĩa là, do ngân hàng không có thông tin đáng tin cậy về người đi vay và do đó không thể phân biệt được con nợ tốt với con nợ xấu nên khi lãi suất quá cao đã đặt ngân hàng vào thế lựa chọn bất lợi chứ không hoàn toàn là người đi vay mới bị bất lợi.
Như vậy, nếu nhìn ở góc độ này thì việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không khống chế trần lãi suất cho vay không chỉ gây bất lợi cho người đi vay như một số phân tích mà ngay cả bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp rủi ro do lựa chọn ngược. Hiện, không có một đánh giá đáng tin cậy nào về tỷ lệ nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng nhưng có điều chắc chắn con số đang tăng lên và tăng nhanh khi khả năng đảo nợ của doanh nghiệp đã đạt đến điểm giới hạn của nó.
Rủi ro thanh khoản
Khác với rủi ro tín dụng thường diễn ra theo một tiến trình, từ những dấu hiệu khó khăn ban đầu như tỷ lệ nợ xấu tăng dần đến quá trình tái cơ cấu nợ. Trong khi đó, rủi ro thanh khoản thường mang tính chất bất ngờ, không nhất thiết phải là những khó khăn trong bảng tổng kết tài sản, và đặc biệt nguy hiểm bởi khả năng lây lan có tính hệ thống trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Có một số công cụ hay phương thức mà các ngân hàng có thể sử dụng nhằm giảm rủi ro thanh khoản như vay liên ngân hàng, vay tái cấp vốn của NHNN, phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (NCDs) hoặc bán các tài sản ngắn hạn... Tuy nhiên, hoạt động vay mượn trên thị trường liên ngân hàng hiện đang bị tắc nghẽn. Công cụ vay tái cấp vốn của NHNN cũng ít khi phát huy hiệu lực do những trở ngại hành chính từ quyết định cấp hạn mức tái cấp vốn và bản thân các ngân hàng cũng không có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn để tái chiết khấu. Các tài sản ngắn hạn nhằm dự trữ thanh khoản như tín phiếu kho bạc cũng chỉ có quy mô nhỏ, lại được phân bổ không đều và không hợp lý giữa các ngân hàng. Thị trường mở không phải là sân chơi cho tất cả các ngân hàng, đặc biệt đối với những ngân hàng đang gặp nhiều áp lực thanh khoản nhất hiện nay.
Hơn nữa, bản thân các ngân hàng, do áp lực cạnh tranh trong việc huy động vốn bởi rào cản trần lãi suất, cũng đã tự làm khó mình khi sáng tạo ra các tài khoản tiền gửi hết sức đa dạng mà bản chất cũng là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn. Chẳng hạn như các tài khoản có kỳ hạn vẫn dễ dàng rút trước hạn một cách linh hoạt mà không kèm ràng buộc nào hoặc tiền gửi kỳ hạn cực ngắn sẽ càng làm gia tăng tính chất bấp bênh của dòng vốn ngân hàng. Cuối cùng, thị trường thứ cấp cho các giao dịch NCDs vẫn chưa hình thành, trong khi thị trường sơ cấp vẫn ở mức độ sơ khai.
Ngoài ra, một phần của rủi ro thanh khoản hiện nay còn phản ánh rủi ro tín dụng mà ngân hàng đang gặp phải như đã nói ở trên. Một tỷ trọng không nhỏ các khoản nợ đang bị găm giữ vào thị trường bất động sản và chứng khoán đã khiến cho dòng vốn không thể xoay vòng được cũng góp phần vào rủi ro thanh khoản. Trong khi đó, chính sách trần lãi suất huy động của NHNN mới là tác nhân trực tiếp làm gia tăng những căng thẳng của rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hiện nay.
Rủi ro chính sách
Bên cạnh rủi ro tín dụng và thanh khoản thì có một rủi ro khác ít được đề cập hơn mà các ngân hàng vẫn thường xuyên đối mặt đó chính là rủi ro chính sách. Tiếp nối dư địa chính sách của những năm trước, trong năm 2011, môi trường chính sách liên tục có nhiều thay đổi ở cả hai cấp độ vĩ mô và ngành (ngân hàng).
Nếu như Nghị quyết 11 được ban hành nhằm ổn định kinh tế vĩ mô là cần thiết thì chính việc thực thi nghị quyết này ở cấp độ ngành lại tạo ra những xáo trộn không nhỏ trong hoạt động của các ngân hàng. Sự điều hành chính sách kiểu hành chính lại có thiên hướng bị lạm dụng quá mức, thậm chí NHNN có những can thiệp sâu vào tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện đó, các ngân hàng không chắc rằng những quyết định hay giao dịch của mình liệu có hợp pháp không và có khả năng vi phạm các quy định “sắp tới” của NHNN không.
Khi môi trường chính sách thay đổi và không thể dự đoán thì các chiến lược và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng cũng bị phá vỡ. Do không thể biết được, với một độ tin cậy nhất định, điều gì sẽ xảy ra nên tính chất bất ổn của môi trường pháp lý hiện nay thể hiện là sự bất trắc (uncertainty) chứ không còn là rủi ro (risk). Trong môi trường bất trắc không suy giảm, các ngân hàng không thể chủ động lập được chiến lược kinh doanh phù hợp, thay vào đó là các sách lược phòng thủ và đối phó. Khi các ngân hàng phải lo đối phó với các thách thức chính sách ngắn hạn như vậy thì sẽ không còn đủ nguồn lực để giải quyết những rủi ro và các thách thức có tính chất dài hạn khác.
Tóm lại, lợi nhuận của các ngân hàng hiện nay là tương đối cao nhưng xem ra vẫn chưa thể phản ánh hết được những rủi ro mà ngân hàng đang đối mặt. Tuy nhiên, bài toán của các ngân hàng hiện nay không phải là tiếp tục tìm cách gia tăng lợi nhuận mà là phải giảm rủi ro. Giảm rủi ro không chỉ là trách nhiệm của từng ngân hàng hay hệ thống ngân hàng mà còn là của NHNN và cả Chính phủ. Trong khi NHNN cần phải trả lại cho thị trường những thứ vốn không thuộc về mình thì Chính phủ cần phải giảm được tính bất ổn trong môi trường chính sách.
Theo Đỗ Thiên Anh Tuấn
TBKTSG
|
Ngày đăng :
04/01/2012 - 9:35 PM
Đầu tư vào các thị trường mới nổi, chẳng hạn như nhóm quốc gia BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) hiện là một trong những hướng đi được nhiều nhà đầu tư chọn lựa, trong bối cảnh tăng trưởng của các nước phát triển bị đình trệ.
Tuy nhiên, các thị trường mới nổi hiện cũng đã trở nên bớt hấp dẫn, khi mà kinh tế trung Quốc đang giảm tốc, Ấn Độ thiếu linh hoạt trong kích thích kinh tế, Nga sẽ bầu cử tổng thống vào tháng 3 và Brazil đang vật lộn với vấn nạn lạm phát.
Trong một hoàn cảnh như vậy, việc chọn lựa thị trường nào đang là vấn đề đau đầu nhức óc của không ít nhà đầu tư. Trong một báo cáo gần đây, ngân hàng Citigroup đã đưa ra danh sách 15 thị trường đầu tư tiềm năng, trong đó có Việt Nam.
Dưới đây là giới thiệu sơ lược về các điểm mạnh, yếu của những thị trường trong danh sách này. Số liệu trong bài do trang tin Business Insider tập hợp từ nguồn của Citigroup. Thứ tự các nước trong bài được xếp theo vần chữ cái tên quốc gia.
Argentina
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 4,1%
GDP bình quân đầu người: 10.675 USD
GDP: 435,2 tỷ USD
Dân số: 40,8 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 98%
Điểm mạnh đáng chú ý: Cơ sở hạ tầng của Argentina tốt hơn các thị trường khác. Nước này cũng có một nền nông nghiệp mạnh. Tiêu dùng nội địa tăng cao đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Những rủi ro cần lưu ý: Lạm phát là nguy cơ lớn của kinh tế Argentina. Đồng Peso có khả năng bị mất giá. Những quan ngại về chính sách có thể tác động lên diễn biến thị trường chứng khoán.
Bangladesh
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 7,5%
GDP bình quân đầu người: 764 USD
GDP: 115 tỷ USD
Dân số: 150,5 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 56%
Điểm mạnh đáng chú ý: Bangladesh có xuất phát điểm thấp, nên có nhiều “khoảng trống” để tăng trưởng. Đây cũng là nền kinh tế trẻ, tăng trưởng nhanh, lực lượng lao động giá rẻ. Thị trường chứng khoán của Bangladesh rộng lớn hơn và linh hoạt hơn những nơi khác.
Những rủi ro cần lưu ý: Cơ hội việc làm hạn chế đã khiến nhiều người dân Bangladesh chạy ra nước ngoài tìm kiếm kế sinh nhai và hạ tầng cơ sở của nước này cần phải cải thiện. Ngoài ra, những thiếu sót trong quy định và giám sát cũng làm tăng rủi ro cho khu vực tài chính.
Ai Cập
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 6,3%
GDP bình quân đầu người: 2.810 USD
GDP: 231,9 tỷ USD
Dân số: 82,5 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 66%
Điểm mạnh đáng chú ý: Dân số đang tăng trưởng nhanh chóng ở Ai Cập được tiếp cận nền giáo dục tốt hơn nhiều quốc gia láng giềng. Các mảng năng lượng, thương mại, vận tải và du lịch đều phát triển nhờ vị trí địa lý thuận lợi.
Những rủi ro cần lưu ý: Những nguy cơ từ phong trào “Mùa xuân Arab” vẫn còn cao và nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã tháo chạy ra khỏi Ai Cập. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh thiếu niên cũng là một vấn đề mà chính phủ mới đang phải đương đầu.
Ghana
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: Chưa rõ
GDP bình quân đầu người: 1.546 USD
GDP: 38,6 tỷ USD
Dân số: 25 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 67%
Điểm mạnh đáng chú ý: Việc đưa vào khai thác mỏ Jubilee ngoài khơi Ghana đã đưa quốc gia này trở thành nước sản xuất dầu mới nhất trên thế giới. Ghana từ xưa đã nổi tiếng về sự giàu có vàng, ca cao, kim cương và mangan.
Những rủi ro cần lưu ý: Ghana cần tránh “lời nguyền tài nguyên” (resource curse), cụm từ được dùng để mô tả nghịch lý của các quốc gia, vùng lãnh thổ giàu có tài nguyên, đặc biệt là các tài nguyên không thể tái tạo như khoáng sản và nhiên liệu, nhưng không có được tốc độ tăng trưởng và hiệu quả phát triển kinh tế như các nước nghèo tài nguyên. Hơn nữa, nước này còn phải đối mặt với những cuộc bầu cử sau mỗi lần khủng hoảng tài chính.
Iraq
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 7,6%
GDP bình quân đầu người: 3.325 USD
GDP: 108,6 tỷ USD
Dân số: 32,7 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 78%
Điểm mạnh đáng chú ý: Sản xuất dầu mỏ của Iraq sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn so với bất kỳ quốc gia nào trong thập niên mới.
Những rủi ro cần lưu ý: Các phe phái trong chính quyền bất đồng về luật dầu mỏ. Vấn đề an ninh cũng là một rủi ro lớn đối với quốc gia đã trải qua bao nhiêu năm chiến tranh này.
Kazakhstan
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 4,5%
GDP bình quân đầu người: 11.115 USD
GDP: 180,1 tỷ USD
Dân số: 16,2 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 100%
Điểm mạnh đáng chú ý: Kazakhstan sở hữu nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên như dầu khí, khoáng sản vàng, đồng, chì và uranium.
Những rủi ro cần lưu ý: Diễn biến xung quanh cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào trung tuần tháng 1 này là điều mà giới đầu tư cần lưu ý. Ngoài ra, khu vực ngân hàng trong nước vẫn đang cố gắng phục hồi sau những khoản nợ xấu.
Kenya
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: Chưa rõ
GDP bình quân đầu người: 868 USD
GDP: 36,1 tỷ USD
Dân số: 41,6 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 87%
Điểm mạnh đáng chú ý: Kenya đã phát hiện được một trữ lượng khí đốt lớn ở ngoài khơi gần biên giới với Ethiopia. Ngành công nghiệp viễn thông của nước này đang tăng trưởng nhanh chóng. Kenya được xem là một trung tâm thương mại và sản xuất ở Đông Phi.
Những rủi ro cần lưu ý: Những căng thẳng về tôn giáo sắc tộc là một trong những vấn đề đáng quan ngại ở Kenya. Ngoài ra, lạm phát của nước này khá cao do giá lương thực đang tăng lên bởi tình trạng khô hạn ở Vùng Sừng châu Phi.
Mông Cổ
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 6,9%
GDP bình quân đầu người: 3.127 USD
GDP: 8,8 tỷ USD
Dân số: 2,8 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 97%
Điểm mạnh đáng chú ý: Mông Cổ giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đồng và than đá. Đây là một nền kinh tế trẻ, dân số đang tăng trưởng và có tỷ lệ tiết kiệm nội địa cao hơn nhiều thị trường khác.
Những rủi ro cần lưu ý: Mông Cổ, cũng như nhiều quốc gia giàu tài nguyên khác, cần tránh mắc phải “lời nguyền tài nguyên”.
Nigeria
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 8,4%
GDP bình quân đầu người: 1.521 USD
GDP: 247,1 tỷ USD
Dân số: 162,5 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 61%
Điểm mạnh đáng chú ý: Khu vực ngân hàng của Nigeria hoạt động khá thuận lợi, doanh thu tốt và lạm phát được xem là đã chạm đỉnh.
Những rủi ro cần lưu ý: Những tranh chấp về tôn giáo đang tăng lên, với những vụ tấn công từ nhóm phiến quân Hồi giáo Boko Haram ở khu vực đông bắc nước này trong năm 2011. Ngoài ra, hạ tầng yếu kém cũng kéo lùi tăng trưởng của Nigeria.
Pakistan
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 4,9%
GDP bình quân đầu người: 1.155 USD
GDP: 204,1 tỷ USD
Dân số: 176,7 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 56%
Điểm mạnh đáng chú ý: Pakistan có dân số lớn, trẻ và đang phát triển.
Những rủi ro cần lưu ý: Tuy nhiên, nền giáo dục của nước này cần được cải thiện. Ngoài ra, những nguy cơ chính trị và an ninh của nước này khá cao.
Romania
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 3,5%
GDP bình quân đầu người: 8.645 USD
GDP: 185,3 tỷ USD
Dân số: 21,4 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 98%
Điểm mạnh đáng chú ý: Xuất khẩu của nước này đang hồi phục.
Những rủi ro cần lưu ý: 75% các ngân hàng của Romania thuộc quyền quản lý của nhà băng châu Âu nên nền tài chính quốc gia này chịu tác động mạnh từ lục địa già. Tăng trưởng GDP của Romania cũng chịu rủi ro do chính sách khắc khổ.
Sri Lanka
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 6,6%
GDP bình quân đầu người: 2.795 USD
GDP: 58,8 tỷ USD
Dân số: 21 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 91%
Điểm mạnh đáng chú ý: Đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh kể từ khi kết thúc cuộc nội chiến giữa nhóm khủng bố LTTE và Chính phủ Sri Lanla. Xuất khẩu của nước này đã được nâng lên, đặc biệt trong lĩnh vực dệt may và nông sản.
Những rủi ro cần lưu ý: Kế hoạch thu mua tài sản của Sri Lanka là một trong những rủi ro tiềm tàng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Ukraine
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 3,7%
GDP bình quân đầu người: 3.604 USD
GDP: 162,9 tỷ USD
Dân số: 45,2 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 100%
Điểm mạnh đáng chú ý: Ukraine có nền nông nghiệp thuộc hàng tốt nhất ở châu Âu. Nước này cũng có lực lượng lao động được giáo dục tốt, hỗ trợ sản xuất.
Những rủi ro cần lưu ý: Tham nhũng là một vấn nạn đối với các nhà đầu tư. Thêm vào đó, những vấn đề của Khu vực đồng Euro cũng tác động tới lĩnh vực ngân hàng của nước này. Thêm vào đó, đồng tiền của nước này bị mất giá cũng là một nguy cơ lớn. Ngoài ra, Ukraine còn quá dựa dẫm vào Nga về năng lượng.
Venezuela
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 4,3%
GDP bình quân đầu người: 10.525 USD
GDP: 309,8 tỷ USD
Dân số: 29,4 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 95%
Điểm mạnh đáng chú ý: Venezuela là một trong những nước có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới và là nhà xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu trên thế giới.
Những rủi ro cần lưu ý: Hơn một nửa nguồn thu của Chính phủ Venezuela là từ xuất khẩu dầu, vì thế kinh tế sẽ chịu rủi ro cùng với sự lên xuống của giá dầu. Thêm vào đó, quyết định quốc hữu hóa các ngành dầu khí, ximăng, sắt thép và siêu thị của Tổng thống Hugo Chavez cũng khiến đầu tư nước ngoài suy giảm.
Việt Nam
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dài hạn: 7,4%
GDP bình quân đầu người: 1.370 USD
GDP: 121,6 tỷ USD
Dân số: 88,8 triệu người
Tỷ lệ người lớn biết chữ: 93%
Điểm mạnh đáng chú ý: Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất cần nhiều nhân lực. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam cũng tăng trưởng khá.
Những rủi ro cần lưu ý: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam khá cao. Ngoài ra, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam còn yếu.
Theo Hồng Ngọc
VnEconomy
|