16 ngành hàng “thống trị” Phố Wall năm 2011

Ngày đăng : 23/12/2011 - 10:31 AM

Kết thúc phiên 22/12, chỉ số Dow Jones tiến 61,84 điểm, tương ứng 0,51%, lên 12.169,58 điểm. S&P 500 tăng 10,29 điểm, tương ứng 0,83%, lên 1.254,01 điểm. Nasdaq Composite tăng 21,48 điểm, tương ứng 0,83%, lên 2.599,45 điểm.
 

 

 

Với kết quả này, chỉ số S&P 500 sắp trở về vạch xuất phát của năm 2011 và chỉ số Dow Jones đã tăng điểm trở lại trong năm. Nếu các phiên tới, thị trường tiếp tục khởi sắc, Phố Wall sẽ đạt mức tăng trưởng tốt hơn các khu vực khác trong năm.

Mặc dù xu thế thị trường khó đoán và liệu S&P 500 có trở về mức tăng điểm trong năm nay hay không, nhưng năm qua, nhiều nhóm cổ phiếu ngành hàng như dự trữ dầu khí, kho vận… vẫn có bước tiến tốt, đem lại lợi ích không nhỏ cho cổ đông.

Dưới đây là 16 nhóm cổ phiếu ngành hàng tăng tốt nhất trong năm 2011 theo bình chọn của Business Insider.

16. Lốp xe và các sản phẩm từ cao su

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 15,27%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 34,69%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Goodyear Tire

15. Bán lẻ ôtô

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 15,83%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 15,89%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Lithia Motors

14. May mặc và phụ liệu

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 16,07%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 8,39%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Oxford Industries

13. Công nghệ sinh học

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 16,20%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 6,68%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Cubist Pharmacy

12. Phần mềm giải trí gia đình

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 17,01%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 1,29%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Electronic Arts

11. Tư vấn công nghệ thông tin

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 19,27%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 1,78%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: IBM

10. Dịch vụ thuê ngoài và xử lý dữ liệu


Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 19,85%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 14,28%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: MasterCard Inc.

9. Phân phối, giao nhận

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 20,51%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 18,42%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: LKQ Corp.

8. Bán lẻ Catalog

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 21,51%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 10,9%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: HSN

7. Bán lẻ nội thất

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 22,23%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 10,76%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Select Comfort

6. Kinh doanh nhà hàng

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 25,74%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 14,54%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Chipotle Mexican

5. Thuốc lá

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 28,04%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 18,45%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Lorillard Inc.

4. Hàng hải, vận tải biển

Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 28,68%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 19,70%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Kirby Corp

3. Thương mại và phân phối


Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 29,59%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 28,45%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Fastenal

2. Chăm sóc y tế


Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 32,62%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 9,95%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: Healthspring Inc.

1. Vận chuyển và dự trữ dầu khí


Mức tăng trưởng từ đầu năm đến nay: 39,59%
Mức tăng trưởng từ đầu quý 4/2011 đến nay: 29,36%
Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất: El Paso Corp.

 

Theo VnEconomy.vn

Mighty useful. Make no mistake, I aprpectiae it.
11/01/2012
Mighty useful. Make no mistake, I aprpectiae it.

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Vì sao giao dịch thỏa thuận áp đảo thời gian qua?

Ngày đăng : 23/12/2011 - 10:20 AM

Trong những phiên giao dịch gần đây trên sàn niêm yết, giao dịch thỏa thuận chiếm giá trị áp đảo. Diễn biến này mang thông điệp gì?
 

 

 

Các kịch bản chuyển đổi

Trái với không khí khớp lệnh buồn tẻ trên sàn, hoạt động giao dịch thỏa thuận lại rất sôi động. Điển hình như phiên 21/12, sàn HOSE đón nhận 891,7 tỷ đồng giá trị từ giao dịch thỏa thuận, lớn gấp 2,6 lần so với giao dịch khớp lệnh.

Trong đó, Sacombank (STB), Hoàng Anh Gia Lai (HAG), Vincom (VIC), Chứng khoán Sài Gòn (SSI) là những cổ phiếu được giao dịch "khủng" nhất.

STB, HAG, VIC, SSI đều đã trải qua nhiều phiên giao dịch có giá trị thỏa thuận gấp trên 10 lần giao dịch khớp lệnh. Diễn biến này khiến không ít NĐT thắc mắc. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Thuận, Trưởng khoa Tài chính - Chứng khoán - Ngân hàng Đại học Mở TP. HCM cho rằng, "đây đơn giản chỉ là sự chuyển đổi sở hữu".

Hiện có 3 kịch bản được các chuyên gia nghĩ tới. Thứ nhất, đó là kịch bản chuyển đổi sở hữu từ người này sang người khác để "cứu" lượng cổ phiếu sắp phải giải chấp.

Cụ thể, trước diễn biến giá cổ phiếu giảm sâu, thay vì nhìn một lượng lớn cổ phiếu bị CTCK bán giải chấp, NĐT có thể chọn hình thức dùng tài khoản khác để mua lại cổ phiếu nhằm tránh một thua lỗ quá mức sẽ xảy ra.

Kịch bản thứ hai là một số cổ đông tìm cách chuyển đổi sở hữu để giảm tỷ lệ xuống dưới 5% vốn của DN, để vừa tránh được quy định phải bắt buộc công bố thông tin khi mua bán, vừa có thể thực hiện thay đổi cách thức nộp thuế giao dịch chứng khoán.

Thực tế, trước diễn biến càng đầu tư càng thua lỗ, nếu NĐT chọn hình thức nộp thuế theo hình thức nộp thuế thu nhập cá nhân thì rất thiệt thòi. Do đó, họ có thể thỏa thuận chuyển lượng cổ phiếu đang sở hữu về một công ty chuyên đầu tư tài chính để đóng thuế trên lợi nhuận cuối kỳ của DN này. .

Một kịch bản được đánh giá có khả năng xảy ra nhiều nhất, đó là giao dịch khớp lệnh lô lớn nhằm mục đích thâu tóm, sáp nhập. Bằng chứng là những hoạt động mua bán liên tục với khối lượng lớn ở STB, SBS, HVG… thời gian qua ít nhiều đều liên quan đến câu chuyện thâu tóm, chống thâu tóm.

Cũng có thể NĐT mua bán chứng khoán qua giao dịch thỏa thuận chỉ đơn giản để đầu tư hay thoái vốn như trường hợp ở Sacomreal. Nhưng dù là với kịch bản gì thì rõ ràng, hiện nay giới đầu tư, nhất là NĐT tổ chức đang chuộng hình thức "buôn sỉ" hơn "buôn lẻ".

Cách thức này vừa giúp họ giao dịch khối lượng lớn với giá có thể thỏa thuận, vừa có thể chủ động trong tìm kiếm người bán - người mua. Tuy nhiên, ở góc độ thị trường, ông Thuận đánh giá: "Giao dịch thỏa thuận không mang nhiều ý nghĩa, vì không giúp tăng thanh khoản hay tăng giá cổ phiếu".

Dòng tiền lớn đã tìm được hướng đi?

Nhìn về dài hạn, ông Phan Dũng Khánh, Trưởng phòng Phân tích - Đầu tư, CTCK KimEng Việt Nam (KEVS) nhận định: "Việc gia tăng các giao dịch thỏa thuận mang nhiều thông điệp tích cực". Cụ thể, tuy chưa tham gia trực tiếp để tăng thanh khoản, nhưng đã có một lượng vốn đáng kể, bằng cách này cách khác đang âm thầm đổ vào chứng khoán.

Nhưng động thái của dòng tiền kín tiếng này lại đang khiến cho nhiều lãnh đạo DN lo lắng. Một số DN niêm yết bày tỏ ý nguyện rời sàn như một cách phòng vệ từ xa việc bị thâu tóm khi giá cổ phiếu xuống quá thấp.

Ông Khánh nhận định, DN có lý khi đề phòng các giao dịch thỏa thuận với số lượng lớn, khi với thị giá hiện nay, DN có thể bị "mua đứt" bất cứ lúc nào. Bởi lẽ, một số đại gia nhiều tiền - chưa nói đến các tổ chức đã đặt vấn đề với cá nhân ông để tư vấn về việc này. Cái đích mà các NĐT này hướng tới không phải là lợi nhuận từ lướt sóng, mà là tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn hoặc giá trị tài sản của DN.

Chắc chắn người mua - với tâm lý muốn mua rẻ, càng thích thú nếu thấy TTCK tiếp tục lình xình ở mức thấp như hiện nay. Vì thế, họ sẽ không dại gì chọn giao dịch khớp lệnh để khiến cầu tăng, giá tăng. Nhưng đến một lúc nào đó, khi ngày càng nhiều dòng tiền lớn đổ vào và cạnh tranh trong tìm kiếm cơ hội từ TTCK tăng lên, những NĐT giấu mặt bắt buộc phải mua bằng cách khớp lệnh trên sàn.

Thực tế, so với đầu tư vàng, ngoại tệ hay bất động sản thì đầu tư cổ phiếu qua nắm giữ khối lượng lớn với giá rẻ đang là lựa chọn của không ít người có tiền. Họ đã nhìn ra, không phải lúc nào cũng có thể có cơ hội sở hữu cổ phiếu với giá thấp như lúc này.

Vì thế, nhân lúc nhiều DN đang khó khăn về thanh khoản, nhân lúc cổ đông lớn, cổ đông chiến lược cơ cấu lại danh mục, một bộ phận không nhỏ NĐT đã chớp thời cơ gom cổ phiếu và giao dịch thỏa thuận là phương thức hiệu quả giúp họ đạt mục đích.

 

Theo Ngọc Thủy

 ĐTCK


 

 


Chứng khoán, “bỗng dưng muốn khóc”

Ngày đăng : 22/12/2011 - 10:49 AM

Thị trường chứng khoán là thị trường của niềm tin, nhưng, những gì diễn ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam những năm qua đã cho nhà đầu tư thấy niềm tin cũng thật mong manh.

Áp lực để tồn tại


Trong thời kỳ hoàng kim thị trường chứng khoán Việt Nam từ cuối năm 2005 đến đầu năm 2007, khi hầu hết nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán đều có lãi, số lượng công ty chứng khoán không đủ đáp ứng nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư.

Doanh thu của các công ty chứng khoán từ nghiệp vụ môi giới rất lớn, nhiều công ty chứng khoán có doanh thu phí môi giới giao dịch một ngày từ 1 đến 3 tỷ đồng - một lực hút hấp dẫn cho việc trào lưu thành lập công ty chứng khoán một cách rầm rộ - bắt đầu từ giữa năm 2006.

Các doanh nghiệp Nhà nước, một số tập đoàn Nhà nước, các cá nhân đã đổ vốn vào thành lập công ty chứng khoán và đến nay đã có 105 công ty chứng khoán được thành lập. Số lượng công ty chứng khoán được thành lập quá nhanh và quá nhiều đúng vào thời điểm nền kinh tế toàn cầu bắt đầu rơi vào khủng khoảng từ đầu năm 2008 kéo theo sự suy giảm của thị trường chứng khoán sau một giai đoạn phát triển quá hưng phấn.

Phải gánh chi phí đầu tư rất lớn cho cơ sở vật chất và quản lý nhân sự, trong khi đó, doanh thu chủ yếu của công ty chứng khoán từ nghiệp vụ môi giới dần dần bị thu hẹp. 50% tổng doanh số phí giao dịch của toàn thị trường thuộc về 10 công ty chứng khoán lớn, 50% doanh số phí giao dịch còn lại chia cho gần 100 công ty chứng khoán vừa và nhỏ.

Nhìn con số sơ bộ nói trên, có thể thấy được các công ty chứng khoán phải đối mặt với khó khăn như thế nào. Các hoạt động khác hầu như không đem lại hiệu quả, đặc biệt là hoạt động đầu tư tự doanh, nhiều công ty chứng khoán thua lỗ lớn vì đã đầu tư tự doanh với số vốn lớn qua các đợt IPO như Vietcombank, Bảo Việt, các doanh nghiệp của Tập đoàn Dầu khí...

Vì vậy để tồn tại, các công ty chứng khoán đã phải quyết liệt đưa ra các sản phẩm, các dịch vụ nhằm cạnh tranh thu hút khách hàng. Một số công ty chứng khoán có lợi thế từ công ty mẹ là các ngân hàng thương mại, các tập đoàn kinh tế lớn đã rót tiền cho các công ty chứng khoán để làm đòn bẩy tài chính với các tỷ lệ đòn bẩy quá cao nhằm mục đích tăng thị phần, lôi kéo khách hàng và triệt tiêu các đối thủ khác, trong khi lại coi nhẹ vấn đề quản trị rủi ro.

Dưới tác động của khủng khoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008, thị trường chứng khoán thoái trào, liên tục mất điểm và giảm mạnh kéo theo các hệ quả của nó: nhiều công ty chứng khoán trở thành nhà đầu tư “bất đắc dĩ” bỗng dưng phải ôm một khối lượng cổ phiếu lớn khi mà đa số nhà đầu tư dùng đòn bẩy tài chính cao không có khả năng thanh toán và từ bỏ danh mục đầu tư của mình; nhiều tổ chức tài chính và tín dụng cung cấp nguồn vốn cho các công ty chứng khoán không thu hồi được vốn của mình; nhiều tranh chấp xảy ra khi mà cơ sở pháp lý chưa rõ ràng.

Phong trào cho nhà đầu tư vay cổ phiếu để bán trước và hoàn trả lại trong một thời gian nhất định (gọi là nghiệp vụ short-sell) đã được một số công ty chứng khoán rầm rộ triển khai khi mà cơ sở pháp lý chưa có. Nghiệp vụ này trên thị trường chứng khoán thế giới đã thực hiện từ rất lâu, tuy nhiên đối với thị trường chứng khoán Việt Nam đây là một hoạt động chưa được pháp luật thừa nhận.

Hệ quả của việc triển khai nghiệp vụ short-sell của một số công ty chứng khoán dẫn đến một làn sóng lôi kéo nhà đầu tư từ công ty chứng khoán này sang công ty chứng khoán khác, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các công ty chứng khoán.

Đồng thời, hậu quả của việc coi nhẹ vấn đề quản trị rủi ro đã đẩy một số công ty chứng khoán đến bờ vực phá sản, mất hết vốn hoặc có hiện tượng lạm dụng vốn của nhà đầu tư…

Thời gian gần đây, liên tục xuất hiện các thông tin tiêu cực từ một số công ty chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam đã xấu lại càng xấu thêm, nhà đầu tư hoang mang và thêm mất niềm tin. Nhiều công ty chứng khoán khác đang hoạt động tốt cũng bị ảnh hưởng nặng nề.

Nhà đầu tư chịu đựng giỏi nhất


Nếu có một tổ chức nào đó khảo sát về các nhà đầu tư chứng khoán trên thế giới, tôi cho rằng nhà đầu tư Việt Nam là "chịu đựng và lạc quan giỏi nhất" trên thế giới, khi nhìn lại những chặng đường mà nhà đầu tư Việt Nam đã trải qua.

Thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã trải qua nhiều thăng trầm. Nhà đầu tư là người cảm nhận sâu sắc nhất sự thăng trầm này, bởi chính họ cũng bị cuốn theo sự thăng trầm của thị trường chứng khoán với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.

Những nhà đầu tư vẫn còn bám trụ với thị trường chứng khoán từ ngày đầu đến nay chắc không còn nhiều. Họ đã trải qua những giai đoạn rất khó khăn của thị trường chứng khoán, đặc biệt là giai đoạn bắt đầu khủng khoảng tài chính toàn cầu năm 2008, thị trường chứng khoán giảm sâu nhưng họ vẫn có niềm tin và lạc quan kỳ vọng vào sự điều tiết của các cơ quan quản lý.

Nhưng thực tế lại không như kỳ vọng, thị trường chứng khoán đã lao dốc không phanh, làm cho hầu hết nhà đầu tư không kịp trở tay và thua lỗ nặng nề, nhiều hệ lụy xã hội sau đó đã diễn ra như: gia đình tan nát, bạn bè và người thân quay lưng…

Tuy nhiên, cũng không lâu sau đó thị trường chứng khoán có dấu hiệu hồi phục lại từ giữa năm 2009, lại có thêm một lớp nhà đầu tư mới lại lao vào thị trường, sự mất mát mới hôm qua thôi tưởng như đã diễn ra từ rất lâu rồi để nhường tiếp cho những kỳ vọng mới.

Thời điểm đó, nhiều sàn OTC ra đời, nhà đầu tư lại bị cuốn hút vào những sàn OTC này để mong muốn tìm kiếm những khoản lợi nhuận nhanh, với một suy nghĩ giản đơn là dễ kiếm lời. Tuy nhiên mọi cái đều có cái giá của nó, nhiều hệ quả tiêu cực từ các giao dịch sàn OTC như vậy đã khiến cho nhiều nhà đầu tư tiền mất tật mang, nhiều tranh chấp xảy ra khi mà cơ sở pháp lý chưa có và tất nhiên người được lợi nhất chính là chủ thể tạo ra các sàn này.

Cũng chính từ giữa năm 2009, các công ty chứng khoán đã liên tục đưa ra các sản phẩm, các dịch vụ cạnh tranh khác biệt nhưng chưa được thừa nhận, nhằm mục đích nâng cao thị phần và lôi kéo nhà đầu tư từ công ty chứng khoán này sang công ty chứng khoán khác.

Làn sóng cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán ngày càng khốc liệt. Nhà đầu tư kỳ vọng vào những khoản lợi nhuận lớn đã sử dụng đòn bẩy tài chính với tỷ lệ cao, nhiều công ty chứng khoán triển khai nghiệp vụ short-sell cũng đưa nhà đầu tư vào vòng xoáy kỳ vọng lợi nhuận lớn.

Nhiều thông tin nội gián bắt đầu phát huy tác dụng, nhiều tổ chức và nhà đầu tư bắt tay với các tổ chức niêm yết để khai thác, tạo dựng thông tin nội gián để dẫn dắt nhà đầu tư nhằm kiếm lợi nhuận bất chính cho mình. Thị trường chứng khoán đã rộ lên những đội “làm giá” cổ phiếu, các đội short-sell.

Một số công ty chứng khoán nằm trong số 10 công ty chứng khoán có thị phần cao nhất đã lập rất nhiều phòng môi giới chuyên để làm điều này cùng với việc cung cấp đòn bẩy tài chính cao để cuốn hút nhà đầu tư mạo hiểm tham gia. Nhiều nhà đầu tư thay vì việc nhận được sự tư vấn đầu tư chuyên nghiệp của các chuyên gia, nghiên cứu báo cáo tài chính của doanh nghiệp chuyển sang tìm kiếm thông tin từ các đội "làm giá" để đưa ra quyết định đầu tư của mình.

Thị trường chứng khoán bắt đầu vận động không theo quy luật và vượt ra ngoài quỹ đạo của nó, và tất nhiên hệ quả của nó là nhà đầu tư tiền mất tật mang, nhiều công ty chứng khoán rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản hoặc phải ôm một khoản nợ khổng lồ.

Tái cấu trúc, hy vọng mong manh

Toàn xã hội đang rộ lên việc tái cấu trúc. Hệ thống ngân hàng tái cấu trúc, các tập đoàn kinh tế lớn tiến hành tái cấu trúc, các thành phần kinh tế khác cũng đang tái cấu trúc, và…

Không nằm ngoài xu hướng đó, thị trường chứng khoán Việt Nam với nhiều vấn đề như vậy tại sao không tái cấu trúc? Suy luận một cách đơn giản như vậy thì đúng là các cơ quản lý đã thể hiện trách nhiệm rất lớn đối với những đứa con của mình sinh ra.

Thị trường chứng khoán là thị trường của niềm tin, nhưng, những gì diễn ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam những năm qua đã cho nhà đầu tư thấy niềm tin cũng thật mong manh. Khi nhiều bất cập, thiếu công bằng, không minh bạch thông tin cũng như nhiều tiêu cực đã liên tiếp xảy ra trên thị trường mà thiếu đi sự quản lý và dự báo của các cơ quan quản lý, không đưa ra được những quyết định kịp thời nhằm hướng thị trường vận động theo đúng quỹ đạo.

Nếu cơ quan quản lý triển khai nghiệp vụ cho vay ký quỹ (margin) sớm hơn, và có các biện pháp để kiểm soát và định hướng cho việc phát triển nghiệp vụ này thì chắc chắn hiện nay sẽ không có nhiều vấn đề tiêu cực tồn tại. Nếu cơ quan quản lý mạnh tay hơn với các công ty chứng khoán mất thanh khoản thì có lẽ không có nhiều rủi ro cho nhà đầu tư và cho nhiều công ty chứng khoán khác. “Nếu” thì nhiều lắm, khi mà chúng ta đã bỏ qua mất nhiều cơ hội dự báo, định hướng và kiểm soát thị trường khi mà nó chưa sinh ra những tồn tại và tiêu cực.

Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán của cơ quan quản lý có khắc phục được triệt để các tồn tại này hay không, hiện tại không ai có thể trả lời chính xác được câu hỏi này.

Còn đối với nhà đầu tư, mong muốn lớn nhất vẫn là việc được tiếp cận các nguồn thông tin chính xác và minh bạch, các nghiệp vụ và các sản phẩm cho thị trường được triển khai một cách đồng bộ, đảm bảo sự công bằng. Trước mắt thì việc triển khai rút ngắn thời gian thanh toán thành T+2 có thể xem là yêu cầu chính đáng của nhà đầu tư, khi mà cơ quan quản lý cũng đã đề cập nhiều lần về thời điểm triển khai. Việc trì hoãn triển khai rút ngắn thời gian thanh toán thành T+2 cũng làm cho nhà đầu tư mất dần niềm tin vào cơ quan quản lý. Việc triển khai nó, mặc dù có thể bị trì hoãn vì lý do kỹ thuật, tuy nhiên nếu chúng ta thực sự muốn triển khai thì không có lý do gì mà chúng ta không thể làm được.

Việc tái cấu trúc các công ty chứng khoán không thể chỉ thực hiên bằng phương pháp cơ học, dựa vào các con số và đốt cháy giai đoạn, hơn ai hết các cơ quan quản lý biết được sức khỏe những người con của mình sinh ra, để từ đó đưa ra các phác đồ điều trị thích hợp cho từng đối tượng. Không nên bắt tất cả các con của mình đều phải uống một liều thuốc như nhau, đều phải thực hiện một phác đồ điều trị như nhau, tất yếu sẽ dẫn những hậu quả không mong đợi. 

Theo Đoàn Ngọc Hoàn

VnEconomy


TTCK Việt Nam: Kinh nghiệm người đi trước và cơ hội trước thềm hội nhập WTO

Ngày đăng : 22/12/2011 - 10:41 AM

Các cơ quan quản lý TTCK Việt Nam, cũng như các CTCK trong nước sẽ làm gì khi thời điểm TTCK Việt Nam hoàn toàn hội nhập WTO đang đến gần?


Về mặt logic, không thể áp đặt các tình huống ở những TTCK đi trước vào TTCK Việt Nam. Nhưng ở một chừng mực nào đó, kinh nghiệm tại một số quốc gia lân cận đi trước vẫn mang ý nghĩa tham khảo, học hỏi nhất định.

Rào cản kỹ thuật: Mục tiêu nào?

Trong email gửi từ Singapore trả lời ĐTCK, ông Tan Pei San, Giám đốc điều hành phụ trách các hoạt động quốc tế của Tập đoàn Kim Eng cho biết, Sở GDCK Singapore (SGX) hiện có 97 đơn vị môi giới được cung cấp dịch vụ chứng khoán, trong đó chỉ có 28 công ty là thành viên của SGX.

Từ ngày 1/1/1995, Singapore là thành viên WTO, nhưng ngay từ năm 1987, các tổ chức tài chính nước ngoài đã được phép mua tới 49% cổ phần các hãng môi giới (tương đương CTCK ở Việt Nam).

Sau khi Singapore vào WTO, cùng với việc mở cửa thị trường, số lượng hãng cung cấp dịch vụ chứng khoán và áp lực cạnh tranh theo đó cũng tăng lên, nhiều hãng môi giới tại Singapore đã có sự hợp nhất.

Chẳng hạn, năm 2001, Kim Eng Securities và Ong Asia Limited hợp nhất thành Kim Eng Securities ngày nay, còn UOB KayHian hiện nay là sự hợp nhất của 8 hãng khác nhau. Sau 11 năm Singapore vào WTO, tới tận tháng 9/2006, CTCK 100% vốn nước ngoài đầu tiên tại quốc gia này - AmFraser Securities mới được thành lập.

Ông Lê Minh Tâm, Tổng giám đốc Kim Eng Việt Nam (KEVS) nhận xét, dù đã là quốc gia phát triển, nhưng khi vào WTO, Chính phủ Singapore vẫn tận dụng các rào cản kỹ thuật như một đòn bẩy hướng tới mục tiêu tăng cường sức mạnh thị trường tài chính nội địa.

Cụ thể, với các quốc gia mới hội nhập WTO, hai rào cản được sử dụng phổ biến là hạn chế các hoạt động nghiệp vụ và hạn chế quyền sở hữu các tổ chức tài chính trong nước của nhà đầu tư nước ngoài.

Chính phủ Singapore đã lựa chọn biện pháp thứ nhất: giai đoạn đầu khi hoạt động tại Singapore, các tổ chức tài chính nước ngoài bị đặt ra khá nhiều điều kiện khắt khe về yêu cầu nghiệp vụ hoạt động.

Theo ông Tâm, chính quy định này đã khiến nhiều tổ chức tài chính quốc tế bắt buộc phải chuyển giao không chỉ vốn mà cả công nghệ, kinh nghiệm quản lý, khiến thị trường tài chính Singapore tự hấp thụ, lớn mạnh, trở thành trong các thị trường thứ cấp quan trọng nhất tại Đông Nam Á.

Hiện nay, "topten" các CTCK lớn nhất Singapore đan xen một nửa là các công ty nội địa, nửa còn lại có yếu tố sở hữu nước ngoài.

Chìa khóa: tái cấu trúc

Một điều không may mắn khi TTCK Việt Nam mở cửa hội nhập hoàn toàn thì tình hình kinh tế vĩ mô trong nước lẫn thế giới vẫn trong trạng thái bất ổn. Bối cảnh này khá giống với Hàn Quốc khi nước này vào WTO năm 1995 và chịu ngay cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.

Trao đổi với ĐTCK, ông Oh Kyung Hee, Tổng giám đốc CTCK KIS Việt Nam nói rằng, trước thời điểm hội nhập, TTCK Hàn Quốc cũng có quy định về giới hạn sở hữu cho NĐT nước ngoài như khối ngân hàng giới hạn ở mức 11%, CTCK 49%.

Sau khi Hàn Quốc vào WTO một năm, các giới hạn này vẫn được duy trì. Chỉ khi nhà đầu tư ngoại ồ ạt rút vốn trong cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Hàn Quốc mới nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu ở một số ngành nghề không cần điều kiện (trong đó có chứng khoán) lên mức tối đa 100% để thu hút lại dòng vốn ngoại.

Tổng giám đốc người Hàn Quốc của KIS cho biết, trong thời gian khủng hoảng, Chính phủ Hàn Quốc trực tiếp đứng ra tạo hành lang pháp lý cho các CTCK lớn hợp nhất tự nguyện, các CTCK yếu phải chấp nhận đào thải. Hiện nay, Top 5 trong 40 CTCK tại Hàn Quốc đều là các CTCK bản địa.

Ở thời điểm hội nhập, nếu nền kinh tế và TTCK Singapore cùng với Hàn Quốc có một khoảng cách quá lớn so với Việt Nam thì Malaysia ở một vị thế gần hơn.

Bà Josephine Yei, Tổng giám đốc người Malaysia của CTCK SaigonBank Berjaya- (SBBS) cho ĐTCK biết, quốc gia Đông Nam Á này vào WTO năm 1995 và theo các cam kết thì có 10 năm để tiến tới hội nhập hoàn toàn.

Tuy nhiên, tới năm 2005, thấy TTCK bản địa vẫn chưa thể cạnh tranh ngang ngửa với đối thủ bên ngoài, Chính phủ Malaysia vận dụng các điều kiện "mềm" khi đàm phán vào WTO để chủ động lùi thời hạn mở cửa hoàn toàn thêm 2 năm.

Trong thời gian này, các CTCK yếu phải tự sáp nhập hoặc chấp nhận đào thải, các CTCK trung bình phải tự tái cấu trúc. Khi mở cửa hoàn toàn, Chính phủ Malaysia cũng giới hạn CTCK nước ngoài tối đa dừng lại ở con số 10. Kết quả là hiện nay, TTCK Malaysia có 30/37 CTCK đang hoạt động là các CTCK bản địa.

Chứng kiến sự hội nhập của kinh tế Trung Quốc vào WTO cách đây 10 năm, TS. Alan Phan, Chủ tịch Quỹ đầu tư Viasa đang hoạt động tại Hồng Kông và Thượng Hải, nhận xét, trở ngại lớn nhất đối với các tổ chức tài chính đi tìm cơ hội ở các vùng đất mới là các rào cản về môi trường kinh doanh và tập quán suy nghĩ riêng của NĐT nội địa.

Tuy nhiên theo kinh nghiệm của Viasa, khác biệt này chỉ duy trì 2 - 3 năm đầu tiên, sau đó khoảng cách được san bằng qua chính sách sử dụng nhân sự người địa phương của các tổ chức ngoại.

TS Alan Phan nhận định, các CTCK Việt Nam vẫn có thời gian vài năm để duy trì và phát huy lợi thế trước khi "vũ khí" này bị vô hiệu hóa.



Theo Giang Thanh

ĐTCK
 


Bóc mẽ chiêu móc tiền tài khoản nhà đầu tư

Ngày đăng : 21/12/2011 - 10:42 AM

Việc không tách tài khoản tổng khiến CTCK có thể "mượn" tiền NĐT để gửi ngân hàng hoặc "tài trợ" cho mục đích tự doanh của mình.

 

 

Hàng loạt công ty chứng khoán mất thanh khoán, không có tiền trả cho nhà đầu tư khiến cho mọi người mới giật mình với các chiêu móc tài khoản, tùy tiện trong quản lý tiền nhà đầu tư của công ty chứng khoán.

Trong khi đó, quy định về tách bạch tài khoản thì không được thực thi.

Trước tình hình các CTCK SME, TAS, DDS mất thanh khoản không có tiền để chi trả cho NĐT rút tiền và nhiều CTCK đang gặp khó khăn về nguồn vốn thì vấn đề tách bạch tài khoản (TK) tiền của NĐT một lần nữa lại nóng lên. CTCK đã làm gì với tiền của NĐT? Cần phải có các chính sách gì để giải quyết được tình trạng này và lấy lại lòng tin cho các NĐT?.

Biến tướng do thiếu quản lý

Theo quy định tại điều 32 Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK thì "CTCK phải quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng tách biệt khỏi chính tiền của CTCK".

Việc quy định với nội dung nêu trên vô hình chung được hiểu chung chung là CTCK muốn triển khai thế nào cũng được và dẫn đến hệ quả là tại nhiều CTCK khác nhau, các hình thức biến tướng khác nhau trong việc thực hiện "tách biệt" tiền của NĐT.

Cho đến thời điểm hiện tại sau hơn 4 năm ban hành quy định, có rất ít CTCK thực hiện việc "tách biệt" theo đúng nghĩa (TK tiền của NĐT mở tại Ngân hàng dịch vụ thanh toán). Hiện tại, mới chỉ có không đến 10 CTCK thực hiện kết nối với một ngân hàng làm dịch vụ thanh toán và mở TK tiền tách biệt cho NĐT tại ngân hàng.

Tại sao sau khoảng thời gian dài hơn 4 năm như vậy mà CTCK không triển khai thực hiện được quy định về tách biệt TK tiền của NĐT? Có khó khăn gì quá lớn tạo ra sự cản trở thực hiện quy định này trên thực tế? Để giải đáp các câu hỏi này, chúng ta cùng xem xét việc triển khai dưới góc độ kỹ thuật, lợi ích của CTCK trong việc tách bạch và tính khả thi của quy định:

Thứ nhất: Dưới góc độ kỹ thuật kết nối với ngân hàng thương mại (NHTM). Đúng là tại thời điểm ra đời quy định này năm 2007 thì hệ thống NHTM của Việt Nam còn đang trong quá trình mới triển khai hệ thống công nghệ core mới, các công nghệ kết nối và thanh toán đều bị thay đổi và gặp nhiều trục trặc.

Để kết nối, NHTM yêu cầu CTCK phải bỏ thêm chi phí mua thêm phần mềm kết nối (đóng vai trò là cổng giao tiếp) với phần mềm của NHTM. Vì về nguyên tắc, phần mềm của CTCK không được "chọc" vào hệ thống phần mềm của NHTM và ngược lại.

Do đó, cần phải có một phần mềm trung gian để "vớt" dữ liệu về giao dịch (tiền đặt lệnh) từ phía CTCK để "chuyển" về NHTM thực hiện phong tỏa tiền, sau khi khớp lệnh, thực hiện tự động trích tiền chuyển về CTCK, nếu không khớp, hết phiên giao dịch sẽ "nhả" tiền lại cho TK của NĐT.

Thứ hai: Về lợi ích của CTCK trong việc tách bạch. Tại thời điểm quy định trên ra đời, TTCK đang ở thời kỳ thịnh vượng (đạt đỉnh 1159 điểm tại ngày 05/3/2007) và liên tiếp tạo 2 đỉnh phụ tiếp theo 1085 điểm ngày 21/3 và 1104 điểm ngày 10/10. Trong thời kỳ này, số dư tiền hàng ngày của CTCK lên đến hàng trăm tỷ đồng và đối với CTCK lớn là hàng ngàn tỷ đồng.

Đây là số tiền rất lớn đối với CTCK. Do vậy, các CTCK chỉ thực hiện việc tách tiền của NĐT với tiền của CTCK dưới hình thức TK tổng. Cho đến hiện tại, theo Phó CT UBCKNN Nguyễn Đoan Hùng thì có CTCK có tới gần 40 TK tổng.

Về đặt thù hoạt động kinh doanh của CTCK, chúng ta xem xét hệ thống TK thanh toán tiền của CTCK bao gồm 2 loại TK: TK tiền của chính CTCK dùng để phục vụ các hoạt động của công ty như thanh toán thu chi tiền liên quan tới chi phí, tiền phục vụ tự doanh, thu về các khoản doanh thu. TK tiền của NĐT (vẫn đứng tên CTCK) dùng để thanh toán thu chi các hoạt động luân chuyển tiền của NĐT.

Với việc cả 2 loại TK này đều đứng tên chủ TK là chính CTCK và NHTM chỉ là đơn vị thực dịch vụ thanh toán thì việc sử dụng tiền thu chi ở TK nào là quyền của CTCK. Mà đồng tiền thì đâu có đánh dấu tiền nào là tiền của nhà đầu tư và tiền nào là của CTCK. Mọi việc làm xiếc bắt đầu từ đây.

Nguồn lợi CTCK hưởng, rủi ro dành cho NĐT

Với nguồn tiền lớn đến đến hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ như trên, nguồn lợi của CTCK là gì? Bình thường, với việc để số dư tiền của NĐT trên TK thì sẽ được NHTM trả lãi tiền gửi không kỳ hạn là 2,4%/năm thanh toán hàng tháng cho NĐT. Các CTCK chỉ cần lách đi theo một trong những phương thức sau thì lợi ích là rất lớn:

Đầu tư tiền gửi có kỳ hạn: Đây là phương thức hưởng chênh lệch đạo đức nhất. Chỉ cần CTCK chuyển qua phương thức gửi tiền theo tuần với lãi suất trước đây từ 8-9%/năm. Với số tiền dư thường xuyên là 100 tỷ đồng thì hàng năm CTCK cũng đã thu lợi từ chênh lệch này từ (trừ đi 2,4%/năm phải trả cho NĐT) từ 5,6-6,6 tỷ đồng. Số tiền dư của NĐT càng lớn thì khoản lợi nhuận từ hoạt động chênh lệch kỳ hạn này cũng sẽ tăng lên cùng cấp số.

Mượn tiền của NĐT để cho NĐT khác vay: Bình thường, khi cho vay, CTCK phải có tiền của chính mình và thực hiện chuyển tiền vào TK của NĐT để hợp tác kinh doanh. Nhưng với tốc độ tăng giá của TTCK và nhu cầu vốn của NĐT ngày càng cao vào thời điểm này thì với nguồn vốn kinh doanh hai ba trăm tỷ đồng (thậm chí lên đến 1000 tỷ đồng) của CTCK là không đủ đáp ứng vốn cho NĐT vay. CTCK chỉ cần làm một thao tác là khéo léo sử dụng tiền của NĐT này cho NĐT khác vay (khéo léo là vì phải tính toán giải pháp khi NĐT có tiền cần rút tiền ra).

Với việc thu xếp được giải pháp này, CTCK không cần phải đi vay NHTM với mức lãi suất cao và điều kiện cũng không dễ dàng gì để cho vay lại. Nếu CTCK chỉ cần sử dụng được bình quân 100 tỷ đồng nguồn vốn từ tiền của NĐT rảnh rỗi với mức lãi suất 2,4%/năm cho vay lại với mức lãi suất 14-15%/năm thì có thể dễ dàng cho ra lợi nhuận từ hoạt động này từ 11,6-12,6 tỷ đồng. Nguồn lợi này là quá lớn. Nếu số tiền có thể sử dụng được của NĐT là ba, bốn trăm tỷ thì hiệu quả thu về của CTCK là bao nhiêu?

Tài trợ chớp nhoáng cho hoạt động tự doanh: Có ai cấm đồng tiền nhảy từ TK tổng của NĐT qua tài trợ cho hoạt động tự doanh của CTCK? CTCK chỉ cần thực hiện một tác nghiệp đơn giản viết ủy nhiệm chi (UNC) chuyển tiền từ TK tổng của NĐT qua thẳng TK thanh toán bù trừ tự doanh của CTCK tại ngân hàng chỉ định thanh toán.

Với hàng loạt "đội lái" mà CTCK hỗ trợ (trực tiếp hoặc gián tiếp) thì việc tham gia "cùng lái" vài ba mã chứng khoán cũng là điều khó cưỡng lại. Chỉ cần số tiền "mượn được" từ TK tổng của NĐT 50 tỷ thôi, và trong vòng T+4 tham gia "cùng lái" là CTCK cũng kiếm được 10-15% lợi nhuận. Mức sinh lời như vậy thì quả là quá hấp dẫn.

Các CTCK đều sử dụng một trong các phương thức sử dụng tiền trên TK tổng của NĐT như đã nêu trên, khác nhau là ở mức độ chiếm dụng (từ a đến c) hay quy mô chiếm dụng (ít hay nhiều). Ít thì vài chục tỷ, nếu nhiều lên đến hàng trăm và thậm chí cả ngàn tỷ.

Do vậy, khi TTCK suy giảm như thời điểm hiện tại, các CTCK gánh đòn về hệ quả từ nặng đến nhẹ như: Lỗ nặng vào vốn của CTCK (do chiếm dụng tiền tham gia tự doanh), không thanh toán được tiền cho NĐT ngày T+3 sau ngày bán chứng khoán hoặc nhẹ nhất là không còn số dư tiền để phục vụ cho hoạt động.

Thứ ba: Tính khả thi của các quy định của cơ quan quản lý. Qua hai vấn đề về kỹ thuật cũng như lợi ích của CTCK khi không tách bạch TK tổng, chúng ta có thể thấy vấn đề cùng song song tồn tại thời gian 4 năm qua là cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là UBCKNN) cũng chưa quyết liệt trong việc yêu cầu tuân thủ. Có thể lý do thứ nhất về khó khăn kỹ thuật chỉ là cái cớ để không thực hiện, còn nguồn cơn của nó phải nói là lợi ích từ vấn đề thứ 2.

Hiện nay, TTCK không còn nóng như những năm trước đây. UBCKNN cũng đang thực hiện đề án tái cơ cấu lại các CTCK. Có thể thấy đây cũng là vấn đề cần xử lý để các CTCK trở về hoạt động đúng chức năng của mình và không tạo ra sự lạm dụng cũng như củng cố niềm tin cho các NĐT trên TTCK VN.

 


Theo Trần Việt

VEF

 


“UBCK chưa chủ động giám sát thị trường”

Ngày đăng : 21/12/2011 - 10:39 AM

Theo Báo cáo "Các chỉ tiêu giám sát tài chính", công tác giám sát của UBCK chủ yếu dựa trên báo cáo của các Sở GDCK, chứ không có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin giám sát tự động.

 

 

Báo cáo "Các chỉ tiêu giám sát tài chính" là kết quả nghiên cứu của Dự án hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô, do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, vừa công bố đã đưa ra đánh giá, công tác giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) chủ yếu dựa trên báo cáo của các Sở GDCK, chứ không có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin giám sát tự động.

Điều này dẫn đến việc UBCK mới chỉ phát hiện được những vi phạm đơn giản, dễ thấy như vi phạm về CBTT, quy chế giao dịch, mà chưa phát hiện có hiệu quả và kịp thời những vi phạm tinh vi như giao dịch nội gián, thao túng giá…

Để khắc những hạn chế trên, ngoài tăng cường năng lực giám sát cho UBCK, Báo cáo khuyến nghị nên trao thêm quyền cho Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia theo hướng, chủ động tiến hành nhiều biện pháp giám sát từ xa và tại chỗ, đồng thời, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Quốc hội Nguyễn Văn Phúc, các đề xuất trên sẽ được tập hợp gửi tới cơ quan hoạch định chính sách và các đại biểu Quốc hội, nhằm nâng cao năng lực thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô.

 

Theo H. Hòe
ĐTCK

 


 

Tin mới cập nhật