Bóc mẽ chiêu móc tiền tài khoản nhà đầu tư

Ngày đăng : 21/12/2011 - 10:42 AM

Việc không tách tài khoản tổng khiến CTCK có thể "mượn" tiền NĐT để gửi ngân hàng hoặc "tài trợ" cho mục đích tự doanh của mình.

 

 

Hàng loạt công ty chứng khoán mất thanh khoán, không có tiền trả cho nhà đầu tư khiến cho mọi người mới giật mình với các chiêu móc tài khoản, tùy tiện trong quản lý tiền nhà đầu tư của công ty chứng khoán.

Trong khi đó, quy định về tách bạch tài khoản thì không được thực thi.

Trước tình hình các CTCK SME, TAS, DDS mất thanh khoản không có tiền để chi trả cho NĐT rút tiền và nhiều CTCK đang gặp khó khăn về nguồn vốn thì vấn đề tách bạch tài khoản (TK) tiền của NĐT một lần nữa lại nóng lên. CTCK đã làm gì với tiền của NĐT? Cần phải có các chính sách gì để giải quyết được tình trạng này và lấy lại lòng tin cho các NĐT?.

Biến tướng do thiếu quản lý

Theo quy định tại điều 32 Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK thì "CTCK phải quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng tách biệt khỏi chính tiền của CTCK".

Việc quy định với nội dung nêu trên vô hình chung được hiểu chung chung là CTCK muốn triển khai thế nào cũng được và dẫn đến hệ quả là tại nhiều CTCK khác nhau, các hình thức biến tướng khác nhau trong việc thực hiện "tách biệt" tiền của NĐT.

Cho đến thời điểm hiện tại sau hơn 4 năm ban hành quy định, có rất ít CTCK thực hiện việc "tách biệt" theo đúng nghĩa (TK tiền của NĐT mở tại Ngân hàng dịch vụ thanh toán). Hiện tại, mới chỉ có không đến 10 CTCK thực hiện kết nối với một ngân hàng làm dịch vụ thanh toán và mở TK tiền tách biệt cho NĐT tại ngân hàng.

Tại sao sau khoảng thời gian dài hơn 4 năm như vậy mà CTCK không triển khai thực hiện được quy định về tách biệt TK tiền của NĐT? Có khó khăn gì quá lớn tạo ra sự cản trở thực hiện quy định này trên thực tế? Để giải đáp các câu hỏi này, chúng ta cùng xem xét việc triển khai dưới góc độ kỹ thuật, lợi ích của CTCK trong việc tách bạch và tính khả thi của quy định:

Thứ nhất: Dưới góc độ kỹ thuật kết nối với ngân hàng thương mại (NHTM). Đúng là tại thời điểm ra đời quy định này năm 2007 thì hệ thống NHTM của Việt Nam còn đang trong quá trình mới triển khai hệ thống công nghệ core mới, các công nghệ kết nối và thanh toán đều bị thay đổi và gặp nhiều trục trặc.

Để kết nối, NHTM yêu cầu CTCK phải bỏ thêm chi phí mua thêm phần mềm kết nối (đóng vai trò là cổng giao tiếp) với phần mềm của NHTM. Vì về nguyên tắc, phần mềm của CTCK không được "chọc" vào hệ thống phần mềm của NHTM và ngược lại.

Do đó, cần phải có một phần mềm trung gian để "vớt" dữ liệu về giao dịch (tiền đặt lệnh) từ phía CTCK để "chuyển" về NHTM thực hiện phong tỏa tiền, sau khi khớp lệnh, thực hiện tự động trích tiền chuyển về CTCK, nếu không khớp, hết phiên giao dịch sẽ "nhả" tiền lại cho TK của NĐT.

Thứ hai: Về lợi ích của CTCK trong việc tách bạch. Tại thời điểm quy định trên ra đời, TTCK đang ở thời kỳ thịnh vượng (đạt đỉnh 1159 điểm tại ngày 05/3/2007) và liên tiếp tạo 2 đỉnh phụ tiếp theo 1085 điểm ngày 21/3 và 1104 điểm ngày 10/10. Trong thời kỳ này, số dư tiền hàng ngày của CTCK lên đến hàng trăm tỷ đồng và đối với CTCK lớn là hàng ngàn tỷ đồng.

Đây là số tiền rất lớn đối với CTCK. Do vậy, các CTCK chỉ thực hiện việc tách tiền của NĐT với tiền của CTCK dưới hình thức TK tổng. Cho đến hiện tại, theo Phó CT UBCKNN Nguyễn Đoan Hùng thì có CTCK có tới gần 40 TK tổng.

Về đặt thù hoạt động kinh doanh của CTCK, chúng ta xem xét hệ thống TK thanh toán tiền của CTCK bao gồm 2 loại TK: TK tiền của chính CTCK dùng để phục vụ các hoạt động của công ty như thanh toán thu chi tiền liên quan tới chi phí, tiền phục vụ tự doanh, thu về các khoản doanh thu. TK tiền của NĐT (vẫn đứng tên CTCK) dùng để thanh toán thu chi các hoạt động luân chuyển tiền của NĐT.

Với việc cả 2 loại TK này đều đứng tên chủ TK là chính CTCK và NHTM chỉ là đơn vị thực dịch vụ thanh toán thì việc sử dụng tiền thu chi ở TK nào là quyền của CTCK. Mà đồng tiền thì đâu có đánh dấu tiền nào là tiền của nhà đầu tư và tiền nào là của CTCK. Mọi việc làm xiếc bắt đầu từ đây.

Nguồn lợi CTCK hưởng, rủi ro dành cho NĐT

Với nguồn tiền lớn đến đến hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ như trên, nguồn lợi của CTCK là gì? Bình thường, với việc để số dư tiền của NĐT trên TK thì sẽ được NHTM trả lãi tiền gửi không kỳ hạn là 2,4%/năm thanh toán hàng tháng cho NĐT. Các CTCK chỉ cần lách đi theo một trong những phương thức sau thì lợi ích là rất lớn:

Đầu tư tiền gửi có kỳ hạn: Đây là phương thức hưởng chênh lệch đạo đức nhất. Chỉ cần CTCK chuyển qua phương thức gửi tiền theo tuần với lãi suất trước đây từ 8-9%/năm. Với số tiền dư thường xuyên là 100 tỷ đồng thì hàng năm CTCK cũng đã thu lợi từ chênh lệch này từ (trừ đi 2,4%/năm phải trả cho NĐT) từ 5,6-6,6 tỷ đồng. Số tiền dư của NĐT càng lớn thì khoản lợi nhuận từ hoạt động chênh lệch kỳ hạn này cũng sẽ tăng lên cùng cấp số.

Mượn tiền của NĐT để cho NĐT khác vay: Bình thường, khi cho vay, CTCK phải có tiền của chính mình và thực hiện chuyển tiền vào TK của NĐT để hợp tác kinh doanh. Nhưng với tốc độ tăng giá của TTCK và nhu cầu vốn của NĐT ngày càng cao vào thời điểm này thì với nguồn vốn kinh doanh hai ba trăm tỷ đồng (thậm chí lên đến 1000 tỷ đồng) của CTCK là không đủ đáp ứng vốn cho NĐT vay. CTCK chỉ cần làm một thao tác là khéo léo sử dụng tiền của NĐT này cho NĐT khác vay (khéo léo là vì phải tính toán giải pháp khi NĐT có tiền cần rút tiền ra).

Với việc thu xếp được giải pháp này, CTCK không cần phải đi vay NHTM với mức lãi suất cao và điều kiện cũng không dễ dàng gì để cho vay lại. Nếu CTCK chỉ cần sử dụng được bình quân 100 tỷ đồng nguồn vốn từ tiền của NĐT rảnh rỗi với mức lãi suất 2,4%/năm cho vay lại với mức lãi suất 14-15%/năm thì có thể dễ dàng cho ra lợi nhuận từ hoạt động này từ 11,6-12,6 tỷ đồng. Nguồn lợi này là quá lớn. Nếu số tiền có thể sử dụng được của NĐT là ba, bốn trăm tỷ thì hiệu quả thu về của CTCK là bao nhiêu?

Tài trợ chớp nhoáng cho hoạt động tự doanh: Có ai cấm đồng tiền nhảy từ TK tổng của NĐT qua tài trợ cho hoạt động tự doanh của CTCK? CTCK chỉ cần thực hiện một tác nghiệp đơn giản viết ủy nhiệm chi (UNC) chuyển tiền từ TK tổng của NĐT qua thẳng TK thanh toán bù trừ tự doanh của CTCK tại ngân hàng chỉ định thanh toán.

Với hàng loạt "đội lái" mà CTCK hỗ trợ (trực tiếp hoặc gián tiếp) thì việc tham gia "cùng lái" vài ba mã chứng khoán cũng là điều khó cưỡng lại. Chỉ cần số tiền "mượn được" từ TK tổng của NĐT 50 tỷ thôi, và trong vòng T+4 tham gia "cùng lái" là CTCK cũng kiếm được 10-15% lợi nhuận. Mức sinh lời như vậy thì quả là quá hấp dẫn.

Các CTCK đều sử dụng một trong các phương thức sử dụng tiền trên TK tổng của NĐT như đã nêu trên, khác nhau là ở mức độ chiếm dụng (từ a đến c) hay quy mô chiếm dụng (ít hay nhiều). Ít thì vài chục tỷ, nếu nhiều lên đến hàng trăm và thậm chí cả ngàn tỷ.

Do vậy, khi TTCK suy giảm như thời điểm hiện tại, các CTCK gánh đòn về hệ quả từ nặng đến nhẹ như: Lỗ nặng vào vốn của CTCK (do chiếm dụng tiền tham gia tự doanh), không thanh toán được tiền cho NĐT ngày T+3 sau ngày bán chứng khoán hoặc nhẹ nhất là không còn số dư tiền để phục vụ cho hoạt động.

Thứ ba: Tính khả thi của các quy định của cơ quan quản lý. Qua hai vấn đề về kỹ thuật cũng như lợi ích của CTCK khi không tách bạch TK tổng, chúng ta có thể thấy vấn đề cùng song song tồn tại thời gian 4 năm qua là cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là UBCKNN) cũng chưa quyết liệt trong việc yêu cầu tuân thủ. Có thể lý do thứ nhất về khó khăn kỹ thuật chỉ là cái cớ để không thực hiện, còn nguồn cơn của nó phải nói là lợi ích từ vấn đề thứ 2.

Hiện nay, TTCK không còn nóng như những năm trước đây. UBCKNN cũng đang thực hiện đề án tái cơ cấu lại các CTCK. Có thể thấy đây cũng là vấn đề cần xử lý để các CTCK trở về hoạt động đúng chức năng của mình và không tạo ra sự lạm dụng cũng như củng cố niềm tin cho các NĐT trên TTCK VN.

 


Theo Trần Việt

VEF

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

“UBCK chưa chủ động giám sát thị trường”

Ngày đăng : 21/12/2011 - 10:39 AM

Theo Báo cáo "Các chỉ tiêu giám sát tài chính", công tác giám sát của UBCK chủ yếu dựa trên báo cáo của các Sở GDCK, chứ không có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin giám sát tự động.

 

 

Báo cáo "Các chỉ tiêu giám sát tài chính" là kết quả nghiên cứu của Dự án hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô, do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, vừa công bố đã đưa ra đánh giá, công tác giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) chủ yếu dựa trên báo cáo của các Sở GDCK, chứ không có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin giám sát tự động.

Điều này dẫn đến việc UBCK mới chỉ phát hiện được những vi phạm đơn giản, dễ thấy như vi phạm về CBTT, quy chế giao dịch, mà chưa phát hiện có hiệu quả và kịp thời những vi phạm tinh vi như giao dịch nội gián, thao túng giá…

Để khắc những hạn chế trên, ngoài tăng cường năng lực giám sát cho UBCK, Báo cáo khuyến nghị nên trao thêm quyền cho Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia theo hướng, chủ động tiến hành nhiều biện pháp giám sát từ xa và tại chỗ, đồng thời, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Quốc hội Nguyễn Văn Phúc, các đề xuất trên sẽ được tập hợp gửi tới cơ quan hoạch định chính sách và các đại biểu Quốc hội, nhằm nâng cao năng lực thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô.

 

Theo H. Hòe
ĐTCK

 


Nửa cuối năm 2012 sẽ triển khai T+2

Ngày đăng : 20/12/2011 - 11:00 AM

Đó là khẳng định của ông Nguyễn Sơn, Vụ trưởng Vụ phát triển thị trường, UBCK. Ông Sơn cũng cho biết, không thật cần thiết cho hợp nhất các CTCK vì nó không đem lại các giá trị công hưởng.

 

 

 

Trong năm tới, trọng tâm của chính sách quản lý là tái cấu trúc TTCK, gồm 4 vấn đề chính là tái cấu trúc lại CTCK; cấu trúc mô hình thị trường; nâng cao chuẩn niêm yết và phân cấp lại thị trường, tái cấu trúc cơ sở cộng đồng đầu tư.

Tái cấu trúc CTCK là việc phải làm, nhưng làm như thế nào để không gây hệ lụy cho NĐT thì phải tính toán. CTCK sẽ được sàng lọc dựa trên chỉ tiêu an toàn tài chính, chia thành nhóm bình thường, nhóm trong diện kiểm soát và nhóm kiểm soát đặc biệt.

Ngày 1/4/2012, UBCK sẽ phân định CTCK thuộc nhóm nào. Dự kiến, sẽ có 20 CTCK có vấn đề, cần cơ cấu lại hoặc rút bớt hoạt động môi giới, cũng có thể để CTCK tự nguyện ngưng nghiệp vụ này. Thực tế, hiện có nhiều CTCK muốn chuyển thành công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư tài chính…

Việc hợp nhất CTCK cũng đã được tính đến nhưng không như hợp nhất ngân hàng, hợp nhất CTCK không đem lại các giá trị cộng hưởng, nên không thật cần thiết áp dụng.

Liên quan đến hoạt động tái cấu trúc mô hình quản lý, có 4 mô hình mà chúng ta có thể tham khảo: tổ chức độc lập nhưng có đan xen giữa các sở như Mỹ đang làm, các sở độc lập hoàn toàn như Trung Quốc, hợp nhất các sở như Hàn Quốc hay tồn tại cạnh tranh như ở Nga…

Việc đi theo mô hình nào thì vẫn cần nghiên cứu thêm, nhưng có thể sẽ có một sở giao dịch thống nhất, sàn TP. HCM giao dịch cổ phiếu, sàn Hà Nội giao dịch trái phiếu và sản phẩm phái sinh. Nhưng ít nhất phải cần thời gian khoảng 2 năm để triển khai mô hình này, vì 2 sở vẫn đang tổ chức vận hành thị trường khá tốt và cần đầu tư thêm công nghệ, phát triển thị trường phái sinh.

Có thể trong tuần này, Bộ Tài chính sẽ ký quyết định liên quan đến việc lập quỹ mở. Những hình thức quỹ mới như quỹ ETF, quỹ hưu trí… sẽ xuất hiện trong tương lai gần. Tóm lại, UBCK sẽ sớm hoàn thiện khung pháp lý, tạo thuận lợi cho dòng vốn vào TTCK.

Tới đây, cũng sẽ có những quy định mới chặt chẽ hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của cổ đông nội bộ và cổ đông lớn. Các đối tượng này không thể vừa bán vừa mua cổ phiếu của DN trong một lần đăng ký, công bố mua mà không mua hoặc ngược lại; DN muốn hủy niêm yết cũng sẽ phải có sự đồng thuận của cả cổ đông nhỏ. Việc triển khai T + 2 có thể được áp dụng vào nửa cuối năm 2012. Trong vấn đề cơ cấu lại hàng hóa trên sàn, chắc chắn cơ quan quản lý sẽ nâng chuẩn niêm yết cổ phiếu.

 


Theo Nguyễn Sơn

 ĐTCK

 

 


Khối lượng cổ phần đăng ký đấu giá BIDV đã vượt khối lượng chào bán

Ngày đăng : 20/12/2011 - 10:15 AM

Số lượng nhà đầu tư tham gia đấu giá tính đến chiều qua khoảng 15.000.

 

 

 

Theo tin từ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - BIDV, đến cuối ngày 19/12, tổng khối lượng cổ phần đăng ký và đặt cọc đấu giá cổ phiếu BIDV trong đợt phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) đã cao hơn khối lượng cổ phần chào bán, với khoảng 15.000 nhà đầu tư tham gia.

Trong đợt IPO này, BIDV tiến hành đấu giá 3% vốn điều lệ, tương ứng với 84,7 triệu cổ phần với giá khởi điểm là 18.500 đồng/cổ phần. Có tất cả 12 công ty chứng khoán làm đại lý trong đợt đấu giá này.

Tính đến ngày 16/12/2011, tại đại lý đấu giá là CTCP Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BSC, đã có 11.238 nhà đầu tư đăng ký tham gia đấu giá cổ phần BIDV, với tổng khối lượng đăng ký là 70,859 triệu cổ phần, bằng 83,6% số lượng đưa ra đấu giá.

Ngày 21/12 sẽ là ngày cuối cùng đăng ký chào bán, ngày  26/12 là ngày bỏ phiếu đấu giá cổ phần. Ngày 28/12 là ngày chính thức tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu của BIDV tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX).

Trước BIDV, hai ngân hàng quốc doanh là ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) cũng đã tiến hành IPO với lượng đăng ký không vượt nhiều so với lượng chào bán và số lượng nhà đầu tư đăng ký đều dưới 13.000.

 

Theo DVT/BIDV


 


Ông Quách Mạnh Hào: “Nhà đầu tư đang đợi”

Ngày đăng : 20/12/2011 - 10:13 AM

Giá cổ phiếu hiện đang ở mức rất rẻ, nhưng dòng tiền vẫn không đổ vào vì NĐT còn đang đợi một cú hích từ chính sách vĩ mô.

 

 

 

Sang năm 2012, diễn biến TTCK sẽ ra sao là câu hỏi rất khó trả lời vào thời điểm này. Hiện nay, dòng tiền từ bên ngoài vào TTCK đang rất dè dặt. Diễn biến này đã và sẽ còn tác động tiêu cực đến tâm lý NĐT.

Trong khi đó, xét điều kiện kinh tế, cả 2 chỉ số quan trọng là bán lẻ hàng hóa và sản xuất công nghiệp đều nằm ở mức thấp nhất kể từ năm 2009. Điều này cho thấy, tình trạng đình đốn sản xuất tương tự năm 2009 đã xuất hiện. Nhưng trong khi năm 2009, Việt Nam có gói kích cầu hỗ trợ thì hiện nay không có gói hỗ trợ nào.

Thực tế, nếu bỏ ra 5 cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất thì chỉ số Index hiện đã thấp hơn mức thấp nhất của năm 2009. Phân tích sâu hơn, sàn Hà Nội còn có tốc độ giảm nhanh và dữ dội hơn năm 2009. Nghĩa là giá cổ phiếu đang rất rẻ. Nhưng tại sao tiền chưa đổ vào? Chỉ có thể lý giải NĐT còn đợi. Họ đợi một cú hích từ nền tảng cơ bản, từ chính sách vĩ mô. Trong đó, câu chuyện lãi suất là đáng quan tâm nhất.

Liệu lãi suất có thể hạ về mức chấp nhận được sau 6 tháng nữa? Câu trả lời còn tùy nhiều yếu tố nhưng dựa theo tính chu kỳ, NĐT có thể hy vọng lãi suất sẽ giảm khi mức lạm phát dự kiến về mức 12 - 13%/năm vào tháng 6/2012.

 

Theo TS Quách Mạnh Hào
ĐTCK

 


Chứng khoán: Một năm thất bại toàn diện

Ngày đăng : 20/12/2011 - 10:05 AM

TTCK đã trải qua một năm thất bại toàn diện. Có quá nhiều câu hỏi "vì sao" đối với UB CKNN - những câu hỏi mà cho đến lúc này đã trở nên quá muộn, nhưng xét theo kỳ vọng "phát triển bền vững" thì muộn vẫn còn hơn là không hỏi gì hết.

 

 

 

Năm của "phân hóa giàu nghèo"

Nếu chỉ liệt kê theo từng sự việc đơn lẻ, sẽ khó có thể thấy khung cảnh toàn diện mà thị trường chứng khoán (TTCK), một cách vô tình hoặc hữu ý, đã vừa đóng vai trò chủ thể nhưng cũng lại là nạn nhân trong năm 2011.

Nhưng cũng như lịch sử của những năm trước, vào cuối năm nay, khi hệ thống lại những sự kiện nổi bật xảy ra trên TTCK, nhà đầu tư mới chợt nhận ra một tình cảnh vô lý đến mức khó tả dường như đã được áp đặt vào thị trường này, không khác gì số mệnh đen bạc của nó.

Một năm thất bại toàn diện của thị trường!

Nhưng hình ảnh thất bại xét ra còn đậm đà hơn nhiều nếu so với năm 2010. Vào tháng 12/2009, chỉ số HNX còn giữ được ở vùng điểm 180. Một năm sau đó, vùng điểm này bị "đá" xuống còn 120 điểm.

Đến tháng 12 năm 2011, HNX không chỉ đã rơi thẳng dưới mốc 100 điểm mà thực tế chỉ còn đúng 50% giá trị của một năm trước đó.

Nhưng tại sao cứ phải lấy HNX như một thước đo căn bản cho thị trường, trong khi đúng ra phải nhìn vào chỉ số VNI - vốn được xem là "con ruột" trong cách tính toán và đương nhiên trong hệ thống báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)?

Quả là VNI đã được tạo dựng như thể "khói sương mờ ảo" - một phong cách của hội họa thời kỳ Ấn tượng vào đầu thế kỷ XX.

Cứ nhìn vào chỉ số này từ cuối năm 2009 đến nay thì những nhà đầu tư nghiệp dư trong nước, và đặc biệt là những người nước ngoài đầu tư vào TTCK Việt Nam nhưng chưa một lần đặt chân đến đất nước này, đã không có gì phải thắc mắc khi VNI chỉ giảm có 33% - một tỷ lệ suy vong khá khiêm tốn, tương đương với chỉ số Hang Seng của Hồng Kông và thậm chí còn khả quan hơn cả Shanghai Composite của TTCK Thượng Hải.

Song "khói sương mờ ảo" lại chính là tấm màn phân hóa triệt để giữa hai chỉ số chứng khoán ở Việt Nam. Trong hai năm qua, trong khi VNI chỉ mất có 1/3 giá trị điểm thì HNX đã kịp mất đến 2/3. Đó là sự khác biệt rất cơ bản mà bất cứ một nhà đầu tư còn trăn trở nào, chỉ cần nhìn lướt qua chiều dài suy vong của sóng giảm, sẽ nhận ra không chút khó khăn.

Không chỉ là đà suy giảm không ngừng nghỉ, mà tình cảnh "phân hóa giàu nghèo" giữa hai chỉ số chứng khoán mới là điểm ấn tượng nhất trong năm 2011.

Nguồn cơn xác thực của người giàu và kẻ nghèo như thế đã khởi phát từ chuyện một người "được" làm giá, còn kẻ khác lại không được hưởng cái diễm phúc ấy. "Xanh vỏ đỏ lòng" đã trở thành cụm từ dân gian chứng khoán rất tiêu biểu từ cuối năm 2010 đến nay.

Chính xác là từ tháng 8/2010, một bàn tay vô hình nào đó đã biến thị trường thành một thứ sân khấu bi - hài kịch. Tính hài kịch đã được các diễn viên chính có tên BVH, MSN, VIC cùng một vài kép hài phụ thể hiện.

Hài kịch lại sinh ra bi kịch. Trong khi những diễn viên thượng thặng trên vẫn tha hồ diễn "cương" thì nhân vật chính của sân khấu - HNX - lại chìm sâu vào bể than khóc, hệt như trong một vở cải lương sầu muộn. Cách ví von "đứa con rơi" đầy cay đắng cũng ra đời từ đó.

Ngã rẽ của "đôi tình nhân" cũng bắt đầu. Họ chia ly nhau, ai đi đường người nấy. Các quỹ đầu tư và những người ăn theo phương thức đầu tư chỉ số vẫn không thua thiệt, còn tất cả những gì không thuộc về phương thức này đã đương nhiên phải chịu số phận hẩm hiu.

Căn bệnh "ba không"

Nhưng số phận của thị trường là do ai tạo ra? Chính nhà đầu tư? Hay do các công ty chứng khoán?

Còn những người có trách nhiệm liên đới thì sao?

Một số bài viết tổng kết về TTCK năm 2011đã mô tả đầy đủ về tình trạng tâm lý bất ổn, thói quen bất nhất của một số nhà đầu tư, cũng như cái chân đứng hoàn toàn thiếu chắc chắn của khối công ty chứng khoán mà đã dễ làm cho nó sụp đổ. Nhưng câu chuyện VNI bị "làm xiếc" quá ư lộ liễu trong cả năm trời qua thì không thể chỉ có nhà đầu tư, công ty chứng khoán và trời đất biết.

Mà những người có trách nhiệm trong UBCKNN đã không thể không nghe thấy và nhìn thấy.

Vì nếu không biết về một sự thật mà tuyệt đại đa số nhà đầu tư nhỏ lẻ đều đã trở thành nạn nhân của nó, thì làm sao những người lãnh đạo của UBCKNN còn đủ năng lực để điều hành một TTCK có vai trò quá quan yếu về "huy động vốn" và "dẫn vốn" trong nền tài chính quốc gia?

Có vẻ như cách nhìn về mối liên quan giữa hiện tượng "xanh vỏ đỏ lòng" với UBCKNN đã chưa được báo giới mô tả một cách sâu sắc hơn, tương xứng hơn với thực tế vốn dĩ của nó.

Có vẻ như phần tường thuật các sự kiện trên TTCK năm nay vẫn tuân theo hình thức "báo cáo tổng kết".

Nhưng ai cũng hiểu là báo cáo tổng kết từ lâu nay đã mang trên mình nó căn bệnh giáo điều hơn là một cái gì đó thực chất.

Cứ sáu tháng và một năm, báo cáo tổng kết lại được trình lên Bộ Tài chính và Chính phủ, mô tả một cách tươi sáng những phần việc mà theo báo cáo này là đã làm được, để cuối cùng tóm gọn là "TTCK tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ được sự ổn định", đồng thời không quên phác ra tương lai đầy hứa hẹn về "TTCK còn nhiều cơ hội phát triển bền vững".

Dường như "T+2", cơ chế mà các nhà đầu tư mong ngóng, đã được báo chí khoét quá sâu khi cho đến giờ, nhưng bất chấp nhiều lần "delay", thị trường vẫn chưa hề nhìn thấy mặt mũi của nó.

Và dường như đó cũng là khiếm khuyết chính của UBCKNN - một sự chậm trễ thiên về nguyên do quan liêu. Khiếm khuyết này xem ra cũng là chuyện khá bình thường, lồng trong bối cảnh mà sự im lặng tuyệt đối của UBCKNN trước tình cảnh thảm thương của TTCK cũng đã trở nên quá đỗi bình thường từ ít nhất một năm rưỡi qua.

Vào tháng 7/2011 - lần sinh nhật thứ 11 của TTCK - khi báo chí bắt buộc phải mô tả về những cái chết theo đúng nghĩa đen từ nạn "thua bạc", dường như căn bệnh "không nghe, không thấy, không biết" của UBCKNN vẫn chưa thuyên giảm chút nào.

Chất vấn!

Nhưng đến quý IV năm nay thì mọi chuyện đã trở nên bùng nổ. "T+2" đã trở thành chuyện quá nhỏ so với quá nhiều hậu quả mang tính tích lũy mà đã đẩy thị trường vào ngõ cụt. Ngày càng nhiều nhà đầu tư phải nhập viện tâm thần.

"Khủng hoảng niềm tin" chỉ là một cụm từ che đậy cho sự khủng hoảng về cơ chế và trên tất cả là khủng hoảng về văn hóa.

Ngõ cụt khủng hoảng ấy cũng khiến nhà đầu tư phải đặt ra những câu hỏi mà trước đây có thể họ chưa từng nghĩ đến:

Vì sao tình trạng "xanh vỏ đỏ lòng" với hình thể bị bóp mép đến cùng cực của chỉ số VNI đã xảy ra hơn một năm qua, đã được một vài tổ chức nghiên cứu mổ xẻ rất kỹ và bị dư luận của tuyệt đại đa số nhà đầu tư lên án, nhưng UBCKNN vẫn không hề đưa ra một giải pháp khắc chế nào, dù chỉ ở mức "cho có"?

Vì sao cho đến gần đây UBCKNN mới có đánh giá về "số lượng công ty chứng khoán là quá nhiều", trong khi chính cơ quan này đã thực hiện cấp phép cho đến 105 công ty như thế từ nhiều năm qua?

Vì sao hậu quả vỡ nợ chứng khoán đã xảy ra thật khủng khiếp nhưng trước đó, UBCKNN đã chưa từng đưa ra ít nhất một lời cảnh báo về hệ lụy này?

Chưa kể đến hậu quả đã, đang và sẽ còn xảy ra trong những động cơ và âm mưu sáp nhập, hay nói trắng ra là thôn tính doanh nghiệp qua sàn - một trong những nguyên nhân chính mà đã khiến nhiều doanh nghiệp không còn cách nào khác là cày cục tự nguyện xin hủy niêm yết.

Và cũng còn không ít câu hỏi "vì sao" khác đối với UBCKNN - những câu hỏi mà cho đến lúc này đã trở nên quá muộn, nhưng xét theo kỳ vọng "phát triển bền vững" thì muộn vẫn còn hơn là không hỏi gì hết.

 


Theo Việt Thắng

 VEF

 


 

Tin mới cập nhật