USD nhấp nhổm tăng

Ngày đăng : 17/09/2012 - 10:06 PM
Cuối tuần qua, giá vàng đã hạ nhiệt sau khi vượt 47,4 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, do giá vàng trong nước còn đắt so với giá vàng thế giới đã khiến giá USD cuối tuần qua có xu hướng tăng trở lại.

Vấn đề quan tâm của người dân và doanh nghiệp hiện nay là giá USD từ nay đến cuối năm liệu có “sóng” theo quy luật thường xảy ra vào những tháng cuối năm.

USD có “té” theo vàng?

Cuối tuần qua, giá USD các NHTM hầu như không có biến động so với chốt ngày trước đó. Theo đó, giá USD của Vietcombank, Eximbank và ACB vẫn ổn định với giá mua vào 20.810-20.830 đồng/USD và bán ra 20.870 đồng/USD. Mức giá bán này được duy trì từ tuần trước (7-9). NHNN niêm yết tỷ giá bình quân liên NH ngày cuối tuần (15-9) vẫn ở mức 20.828 đồng/USD; tỷ giá trần của các NHTM 21.036 đồng/USD.

Trong khi đó, trên thị trường tự do tại TPHCM giá USD phổ biến ở mức 20.860 đồng (mua vào) và 20.880 đồng (bán ra), cao hơn 20 đồng/USD so với ngày trước đó, tăng không đáng kể so với thị trường chính thức, thấp hơn tỷ giá trần của các NHTM. Dù nhu cầu giao dịch USD không có đột biến nhưng có ý kiến cho rằng giá USD tăng trở lại trên thị trường tự do sau nhiều tháng giảm cho thấy đang chịu tác động từ giá vàng.

Theo nguyên tắc giá vàng tăng, giá USD sẽ giảm. Đặc biệt việc NHNN quản lý khuôn đúc vàng miếng SJC nhằm triệt tiêu tình trạng hợp thức hóa vàng nhập lậu, cửa tăng giá USD trên thị trường tự do sẽ không còn. Tuy nhiên, mấy ngày qua, cùng với sự xuất hiện của vàng giả thương hiệu SJC, giá USD có dấu hiệu tăng. Tính chung cả tuần qua, giá vàng tăng 750.000 đồng/lượng nhờ hỗ trợ bởi lực tăng của giá vàng thế giới.

So với cuối tháng 8, giá vàng hiện đã tăng thêm 2,5 triệu đồng/lượng và chênh lệch giữa giá vàng trong và ngoài nước tăng cao, gần 2,5 triệu đồng/lượng, sẽ khiến giới nhập lậu vàng hoạt động trở lại, nhập vàng thương hiệu giả SJC để kinh doanh. Chưa kể, khi giá vàng tăng cao, giới đầu tư sẽ bán một phần vàng, chuyển qua mua ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế gia tăng vào những tháng giáp Tết.

Không đáng lo

Theo TS. Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia, dự trữ ngoại hối nước ta từ đầu năm đến nay đã tăng mạnh trở lại. Cuối năm 2011, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tụt xuống còn 9 tỷ USD, nhưng đã tăng trong 6 tháng đầu năm 2012, với mức tăng thêm hơn 10 tỷ USD, đạt mức 10 tuần nhập khẩu và có thể đạt 12 tuần nhập khẩu vào cuối năm.

 

Hơn nữa, các yếu tố khác giúp hỗ trợ ổn định tỷ giá từ nay đến cuối năm là thâm hụt thương mại thấp, tín dụng ngoại tệ đang có dấu hiệu giảm mạnh khi lãi suất cho vay bằng VNĐ giảm thấp dưới trần lãi suất huy động 9%/năm; tình hình nhập khẩu vẫn giảm do nền kinh tế khó khăn, doanh nghiệp chưa phục hồi được sản xuất, nên nhu cầu ngoại tệ không lớn, sẽ không gây áp lực quá lớn những tháng cuối năm.

Trong khi đó, các NHTM đang bị NHNN siết trạng thái ngoại tệ vào cuối mỗi ngày phải được co hẹp về mức ±20%, từ mức ±30% so với vốn tự có trước đây. Như vậy, tỷ giá sẽ không bất ổn từ nguy cơ đầu cơ của các NHTM lẫn giới đầu cơ trên thị trường tự do.

Theo chuyên gia NH Đinh Thế Hiển, với dấu hiệu kinh tế vĩ mô đang được kiểm soát tốt, mức độ nhập siêu đang giảm, tỷ giá cuối năm nếu có tăng cũng chỉ trong mức 21.000-21.500 đồng/USD. Như vậy, tiền đồng vẫn là lựa chọn của nhiều người dân hiện nay, khi mức tăng của tỷ giá cộng lãi suất tiền gửi ngoại tệ không đủ hấp dẫn họ chuyển dịch dòng tiền, gây “sóng” cho thị trường ngoại tệ tự do.

Bên cạnh đó, khi Hoa Kỳ công bố gói cứu trợ QE3 không thời hạn để kích thích tăng trưởng kinh tế, đã khiến giá USD trên thị trường thế giới giảm mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác.

Điều này cũng góp phần ổn định tỷ giá ở nước ta. Tuy nhiên, để tỷ giá ổn định, VNĐ lấy lại vị thế, điều quan trọng là cần ổn định kinh tế vĩ mô để niềm tin vào nội tệ ngày càng tốt hơn. Đây sẽ là giải pháp vững chắc để ổn định thị trường ngoại hối.

Đặc biệt, thị trường vàng và ngoại tệ có liên quan mật thiết với nhau, nếu những bất ổn trên thị trường vàng vẫn còn, thị trường ngoại tệ sẽ chịu tác động mạnh. Tuy nhiên, nếu biết khai thác và quản lý thị trường vàng một cách hiệu quả sẽ không chỉ ổn định thị trường ngoại tệ, mà còn là cơ hội giúp Việt Nam có lượng ngoại tệ dồi dào phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.

Theo Thanh Thiên
SGĐTTC

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Cấu trúc sở hữu của hệ thống ngân hàng ngày càng chồng chéo

Ngày đăng : 05/09/2012 - 7:30 AM

Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể chia thành các nhóm sau: Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các NHLD : Hiện tại có sáu NHLD trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Thông thường một ngân NHLD được sở hữu bởi một ngân hàng nước ngoài và một ngân hàng trong nước. Chẳng hạn ngân hàng Việt Thái là NHLD giữa 3 đối tác lớn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT), Ngân hàng Thương mại Siam của Thái Lan và Tập đoàn Charoen Pokphand (CP) của Thái Lan với tỉ lệ vốn góp tương ứng là 34%, 33% và 33%; ngân hàng Việt Nga là liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng VTB (trước là Ngân hàng Ngoại thương Nga Vneshtorgbank) với mức góp vốn điều lệ ngang nhau. Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần: đứng trước nhu cầu thu hút vốn và kỹ năng quản trị từ các 158 định chế tài chính có kinh nghiệm nước ngoài, NHNN đã có chủ trương khuyến khích các NHTM trong nước tìm kiếm các đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược. Đến nay, có khoảng 10 NHTM có đối tác chiến lược là các tập đoàn tài chính nước ngoài. Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ: Từ năm 2005 trở lại đây, các quỹ quản lý vốn bắt đầu xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Các quỹ này thường đầu tư vốn vào những NHTM cổ phần có tiềm năng phát triển tốt. Chẳng hạn, Vinacapital đầu tư vốn vào Sacombank, VOF đầu tư vào Eximbank, quỹ Dragon đầu tư vào ACB v.v...

Sở hữu của các NHTMN nhà nước tại các NHTM cổ phần : quan hệ sở hữu này hình thành chủ yếu việc yếu kém nghiệp vụ ngân hàng của các NHTM cổ phần trong giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng 1997-1998. Hiện tại, có gần tám NHTM cổ phần có quan hệ cổ phần với bốn NHTM nhà nước. Tiêu biểu là Vietcombank, hiện đang sở hữu 11% tại Ngân hàng Quân đội, 8,2% tại Eximbank, 4,7% tại Ngân hàng Phương đông, 5,3% tại Ngân hàng Sài Gòn.

Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần: Hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần cũng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Từ những thông tin công bố của các ngân hàng, hiện có ít nhất sáu NHTM cổ phần có cổ đông là một NHTM cổ phần khác. Chẳng hạn, Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại Ngân hàng Việt Á. Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân: trong giai đoạn bùng nổ các NHTM cổ phần và quỹ đầu tư tài chính, rất nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã tham gia góp vốn hình thành các tổ chức tín dụng này. Hiện tại có khoảng gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại các NHTM cổ phần. Hơn nữa hầu hết các tập đoàn nhà nước đều có các công ty tài chính. Mối quan hệ giữa NHTM cổ phần với các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn đồng thời lãnh đạo ở các doanh nghiệp khác Trong các mối quan hệ trên, ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì các mối quan hệ này chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Điều đáng bàn nhất là mối quan hệ thuộc về ba nhóm sau. Khi các NHTMNN là cổ đông lớn của các NHTM cổ phần, các NHTM nhà nước có thể ảnh hưởng đến các ngân hàng thuộc nhóm sau trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Với hai trường hợp các NHTM có cổ đông lớn là các doanh nghiệp, thì rất có thể các NHTM này trở thành sân sau, chuyên huy động vốn từ dân để tài trợ cho các dự án của mình. Mặc dù theo quy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn, nhưng các ngân hàng có thể lách quy định này bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn. Tương tự, việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia. Như vậy, ba trường hợp sở hữu này đều có nguy cơ dẫn đến việc các NHTM sẽ tiến hành thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng. Nếu điều này xảy ra, đây có thể coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu trong hệ thống các TCTD của Việt Nam hiện nay tăng cao. Trích báo cáo Kinh tế Vĩ mô 2012: "Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu". Ấn phẩm do Nhóm Tư vấn chính sách kinh tế vĩ mô thực hiện trong khuôn khổ Dự án "Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô" do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, với sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP).

 


Thương vụ Western Bank - PVF: Tài sản của Western Bank có những gì?

Ngày đăng : 15/08/2012 - 9:32 PM
Gần 30% tài sản của Western Bank có liên quan đến chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu) và bất động sản vào cuối năm 2011. Nợ xấu tại thời điểm cuối năm 2011 là 1,2%.

Với số vốn chủ sở hữu 3.000 tỷ, Western Bank huy động được 12.629 tỷ đồng từ khách hàng và 3.815 tỷ từ các tổ chức tín dụng khác để nâng quy mô tổng nguồn vốn lên hơn 20 ngàn tỷ đồng vào cuối năm 2011.

Ngân hàng này cho vay ra khoảng 8.800 tỷ đồng (chiếm 2/3 vốn huy động khách hàng) và gửi tại các ngân hàng khác hơn 3.600 tỷ còn lại là các khoản đầu tư tài chính, ủy thác và bất động sản.

Theo BCTC năm 2011, Western Bank ủy thác đầu tư cổ phiếu 2.050 tỷ và có 980 tỷ đặt cọc tại 2 CTCK theo các hợp đồng môi giới chứng khoán.

Click vào hình để xem toàn bộ

Các số liệu được lấy từ BCTC 2011 của Western Bank
An Huy

Theo TTVN

 


Chuyên gia quốc tế nói gì về tăng trưởng, lạm phát, nợ xấu?

Ngày đăng : 13/08/2012 - 8:35 AM

 

Chuyên gia quốc tế nói gì về tăng trưởng, lạm phát, nợ xấu?

 

 

Theo JPMorgan, tăng trưởng tín dụng và các hoạt động kinh tế diễn ra yếu ớt trong 6 tháng đầu năm, nhưng đã bắt đầu vững vàng hơn trong thời gian gần đây

 

Các nhà quan sát quốc tế đánh giá cao sự giảm tốc của lạm phát của Việt Nam, nhưng thận trọng về triển vọng tăng trưởng, và tiếp tục bày tỏ quan ngại về vấn đề nợ xấu.

 

Những quan điểm này được thể hiện rõ trong một số báo cáo gần đây của các ngân hàng JPMorgan Chase, HSBC, ANZ..., và hãng đánh giá tín nhiệm Moody’s Investors Service.

 

Lạm phát và tăng trưởng GDP

 

Ba báo cáo đưa ra trong thời gian cuối tháng 7, đầu tháng 8 của JPMorgan Chase, HSBC và ANZ đều nhấn mạnh rằng, với các nỗ lực của Chính phủ, tốc độ lạm phát của Việt Nam đã liên tục hạ nhiệt trong thời gian qua, theo đó tạo “cửa” cho việc hạ lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. 

 

“Các nhà chức trách Việt Nam đã phát tín hiệu sẵn sàng làm những việc cần thiết để đưa nền kinh tế tiến lên phía trước. Năm ngoái, các biện pháp thắt chặt tín dụng đã được áp dụng nhằm hạn chế nhu cầu. Kết quả, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 vừa qua chỉ tăng hơn 5% so với cùng kỳ, từ mức đỉnh 23% vào tháng 8 năm ngoái”, báo cáo “Vietnam at a galance” của HSBC công bố ngày 1/8 viết.

 

Những cải thiện vĩ mô khác như thâm hụt thương mại giảm, tỷ giá USD/VND ổn định, dự trữ ngoại hối tăng… cũng được các báo cáo ngoại ghi nhận. “Thâm hụt thương mại trong 7 tháng đầu năm chỉ còn 58 triệu USD, so với mức khoảng 6 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái. Tỷ giá VND/USD đã ổn định từ đầu năm đến nay. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng nhờ thâm hụt thương mại giảm và dòng vốn giải ngân FDI mạnh” - trích báo cáo HSBC.

 

“Ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được thiết lập trở lại nhờ thực thi các biện pháp chính sách thắt chặt kể từ đầu năm 2011”, báo cáo cập nhật về đánh giá tín nhiệm nợ quốc gia Việt Nam mà Moody’s đưa ra hôm 8/8 nhận xét.

 

Tuy nhiên, với quan điểm thận trọng, các nhà phân tích của Ngân hàng ANZ còn đưa ra một góc nhìn khác trong báo cáo ra ngày 2/8, rằng sự xuống thang của lạm phát có thể là một tín hiệu cho thấy sự suy giảm của nhu cầu - rào cản đối với sự phục hồi tăng trưởng.

 

Báo cáo của ANZ cho thấy, sự suy giảm của nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam thể hiện qua sự đi xuống của tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Báo cáo chỉ rõ, theo số liệu ban đầu, mức tăng trưởng xuất khẩu của tháng 7 đã giảm mạnh xuống còn 3% so với cùng kỳ năm ngoái, từ mức tăng 16,9% trong tháng 6.

 

Cùng quan điểm, HSBC nhận định, ở thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng nhu cầu thấp ở cả trong và ngoài nước. Chỉ số quản lý sức mua (PMI) của Việt Nam trong tháng 7, do HSBC thực hiện, đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi được công bố lần đầu vào tháng 4/2011. Theo HSBC, điều này phản ánh thực trạng người tiêu dùng không còn sẵn sàng chi tiêu do mức nợ cao hoặc do triển vọng tăng trưởng kinh tế kém.

 

HSBC cho rằng, Việt Nam hiện không phải là quốc gia duy nhất phải đối mặt với sự suy giảm của nhu cầu tại thị trường nội địa. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhu cầu tiêu dùng được HSBC dự báo có thể còn ở trong tình trạng trì trệ trong thời gian tới, trong khi những cải cách mang tính cơ cấu cần được thực hiện để giải quyết những vấn đề đã ăn sâu trong nền kinh tế.

 

Trong khi đó, với quan điểm lạc quan hơn, báo cáo đưa ra cuối tháng 7 của Ngân hàng JPMorgan Chase cho rằng, lạm phát cơ bản của Việt Nam (không tính tới các yếu tố giá nhiên liệu và lương thực-thực phẩm) vẫn ở mức 0,6% trong tháng 7 so với tháng 6 và ở mức 8% so với cùng kỳ năm ngoái. “Tương tự như trong mấy tháng qua, sự đi xuống của lạm phát tháng 7 chủ yếu là do giá lương thực-thực phẩm và nhiên liệu giảm” JPMorgan Chase nhận xét.

 

Ngoài ra, theo báo cáo này, tăng trưởng tín dụng và các hoạt động kinh tế diễn ra yếu ớt trong 6 tháng đầu năm, nhưng đã bắt đầu vững vàng hơn trong thời gian gần đây.

 

Biểu đồ tăng trưởng thực GDP và lạm phát của Việt Nam - Nguồn: Moody’s.

 

Tăng trưởng tín dụng và nợ xấu

 

Trái với cách nhìn của JPMorgan Chase về tăng trưởng tín dụng, HSBC và ANZ lại cho rằng, đây là một vấn đề đáng quan ngại của kinh tế Việt Nam ở thời điểm hiện tại.

 

“Sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng tín dụng (dưới 1% tính từ đầu năm) phản ánh các vấn đề bao gồm nhu cầu nội địa suy yếu, một triệu chứng của những yếu kém về cơ cấu, cùng những yếu tố bên ngoài” - báo cáo HSBC nhận xét. 

 

Tuy không đi sâu phân tích cụ thể, nhưng quan ngại của ANZ về tăng trưởng tín dụng chậm chạp của Việt Nam cũng giống như mối quan ngại mà HSBC đưa ra.

 

Một vấn đề nổi bật khác mà các báo cáo ngoại đề cập đến là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Theo quan điểm của Moody’s, xét tới mức độ minh bạch thấp trong các dữ liệu của Việt Nam, thì chất lượng tài sản của các ngân hàng Việt Nam trên thực tế là tệ hơn nhiều so với con số chính thức tỷ lệ nợ xấu 3,1% tính đến thời điểm cuối năm 2011. Tổ chức này cho rằng, “hệ thống ngân hàng của Việt Nam đang cho thấy những điểm dễ bị tổn thương hậu thời kỳ bùng nổ tín dụng”.

 

“Chất lượng tài sản suy giảm đã xói mòn mức vốn của nhiều ngân hàng, làm suy yếu thêm khả năng hấp thụ thua lỗ vốn đã yếu của ngân hàng Việt Nam, đồng thời kìm hãm khả năng cấp vốn tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng. Tăng trưởng tín dụng trong 7 tháng đầu năm vì thế gần như là đi ngang”, báo cáo của Moody’s viết.

 

Báo cáo này cũng cho rằng, để giải quyết vấn đề nợ xấu, Việt Nam sẽ phải chịu chi phí không nhỏ, cho dù một kế hoạch cụ thể cho việc này tới nay vẫn vắng bóng.

 

Dự báo

 

Điểm chung của các báo cáo là đều thận trọng về triển vọng tăng trưởng thận trọng của kinh tế Việt Nam thời gian tới. “Lạm phát đã giảm đáng kể nhưng những mối quan ngại về tăng trưởng lại nổi lên”, Moody’s nhận định, đồng thời dự báo mức tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam sẽ ở mức trung bình 5% trong 2 năm tới. ANZ thì “vẫn quan ngại về những rủi ro đối với mức dự báo tăng trưởng 5,5% cho toàn năm 2012”. 

 

Tuy nhiên, các báo cáo cũng cho rằng, chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam đang đi đúng hướng và lãi suất sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới trên cơ sở dự báo lạm phát sẽ còn hạ thêm.

 

“Những động thái nới lỏng tiền tệ và hỗ trợ tài khóa có thể vẫn sẽ tiếp tục được sử dụng trong năm 2012 để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng… tốc độ lạm phát sẽ giảm trong quý 3 lẫn quý 4 và chạm mốc 6-7% vào cuối năm”, ANZ nhận định. Tuy nhiên, ANZ không đưa ra con số dự báo cụ thể về mức cắt giảm lãi suất. 

 

Tương tự, HSBC tin rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ còn tiếp tục đẩy mạnh tiến trình nới lỏng chính sách tiền tệ, nhưng cũng không đưa ra một con số lãi suất dự báo cụ thể nào.

 

JPMorgan Chase thì dự báo, lãi suất sẽ còn giảm thêm ít nhất 200 điểm phần trăm trong 6 tháng cuối năm. Trước đó, Ngân hàng Standard Chartered cho rằng, lãi suất sẽ giảm thêm 100 điểm phần trong trong quý 3.

 

Theo An Huy

VnEconomy


“Dọn sạch” hệ thống ngân hàng – Bắt đầu từ đâu?

Ngày đăng : 09/08/2012 - 3:06 PM

 

“Dọn sạch” hệ thống ngân hàng – Bắt đầu từ đâu?

 

 

Có vẻ như cắt giảm lương thưởng hay xé nhỏ các đại ngân hàng không phải là những giải pháp có thể giải quyết triệt để những vấn đề mà ngành ngân hàng toàn cầu đang gặp phải.

 

Đã 5 năm trôi qua kể từ khi khủng hoảng tài chính bùng nổ dữ dội vào tháng 8/2007, có vẻ như hệ thống ngân hàng toàn cầu vẫn đang ở trong tình trạng mất kiểm soát. Gần đây, hàng loạt vụ bê bối lại liên tiếp xảy ra : Barclays thao túng lãi suất Libor, HSBC rửa tiền, Nomura thực hiện giao dịch nội gián, JP Morgan sai sót trong quản lý rủi ro và làm tiêu tan 5,8 tỷ USD của nhà đầu tư. 

 

Thực tế, một số trong các vụ bê bối này được bắt nguồn từ bong bóng khổng lồ của ngành tài chính. Giờ đây, các bên đều đang nỗ lực cải cách lại. Tuy nhiên, công chúng đang phẫn nộ trước tốc độ thay đổi quá chậm chạp, đặc biệt là trong bối cảnh suy thoái ngày càng trầm trọng.

 

Một số nhà quan sát mong muốn hủy bỏ hoàn toàn hệ thống già nua với ý tưởng chỉ có những nhân tố mới mới có thể dọn sạch được hệ thống tồi tệ hiện nay. Cũng có ý kiến cho rằng các ngân hàng nên được xé nhỏ, tách bạch ngân hàng bán lẻ với ngân hàng đầu tư. Thậm chí, Sandy Weill, người đã tạo ra Citigroup – ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới – cũng ủng hộ ý tưởng chia nhỏ các tập đoàn tài chính đồ sộ.

 

Rõ ràng là phải có điều gì đó được thực hiện. Ngành tài chính đang khiến người ta hoài nghi về chủ nghĩa tư bản. Trong khi liên tục phải nhận cứu trợ, các lãnh đạo ngân hàng vẫn được thưởng lớn. Lợi nhuận chảy về túi tư nhân trong khi thua lỗ thì do cả xã hội gánh chịu.

 

Các ràng buộc về mặt luật pháp đang được thắt chặt. Sau khủng hoảng tài chính năm 2007, vốn và thanh khoản của tất cả các ngân hàng trên toàn cầu đều được nâng cao trong khi các hành động rủi ro bị hạn chế. Chủ trương trên toàn cầu là nếu như 1 ngân hàng gặp rắc rối, họ sẽ “chết” 1 cách an toàn hơn chứ không phải lúc nào cũng được cứu trợ. Thêm vào đó, lương sẽ giảm đi trong những năm tiếp theo nếu như hoạt động kinh doanh bị thua lỗ.  

 

Công cuộc cải cách với những luật lệ mới đang gây nên áp lực lớn đè nặng lên lợi nhuận của toàn ngành. Các ngân hàng buộc phải xem xét lại mô hình hoạt động, cắt giảm các nghiệp vụ có quá nhiều rủi ro, rút gọn bộ máy nhân sự và thậm chí là rút bớt một số mảng kinh doanh.

 

Tuy nhiên, điều khó khăn ở đây là chí ít thì đến cuối thập kỷ này các cải cách mới có thể được áp dụng. Ngoài nguyên nhân các yếu tố kỹ thuật quá phức tạp, các nhà hoạch định chính sách cũng lo sợ rằng nếu như họ quá mạnh tay với 1 ngành chủ chốt như ngành tài chính, nền kinh tế sẽ lún sâu hơn vào suy thoái.

 

Trong nhiều trường hợp, thay đổi cách thức điều hành và chia nhỏ các bộ phận có vẻ là 1 giải pháp khá hấp dẫn song đây không phải là những lựa chọn tốt nhất. Cuối tháng trước, cả Bob Diamond, CEO của Barclays và Kenichi Watanabe, CEO của Nomura, đều đã từ chức. Tuy nhiên, nếu như tất cả các “đầu tàu” đều ra đi khi công ty của họ gặp rắc rối, những người thiếu kinh nghiệm sẽ phải đảm nhận nhiệm vụ và đây là 1 điều quá nguy hiểm.

 

Trong khi đó, sẽ là quá ngây thơ khi nghĩ rằng có thể nhanh chóng sửa chữa các lỗ hổng bằng cách xé nhỏ các ngân hàng lớn. Hơn nữa, cho rằng sự kết hợp giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán lẻ là nguyên nhân gây ra khủng hoảng cũng là không chính xác. 

 

Rất nhiều ngân hàng chỉ tập trung vào bán lẻ, điển hình Northern Rock của Anh hay Washington Mutual của Mỹ cùng với hàng loạt ngân hàng tiết kiệm của Tây Ban Nha cũng đã lâm vào tình trạng khó khăn. Và, hãy nhớ rằng thất bại lớn nhất thuộc về Lehman Brothers, 1 ngân hàng đầu tư thuần túy.  

 

Thêm vào đó, công việc chia tách các ngân hàng cũng không dễ gì xảy ra 1 cách chóng vánh. Trong bối cảnh khủng hoảng eurozone tiếp diễn như hiện nay, một ngân hàng đầu tư đơn lẻ như Barclays sẽ phải tìm kiếm nguồn tài trợ từ khu vực công, thậm chí là quốc hữu hóa. Tuy nhiên, sẽ phải mất ít nhất là 5 năm để có thể hoàn tất quá trình.

 

Như vậy, đâu là giải pháp hợp lý? Có 3 điều cần làm ngay lúc này. 

 

Thứ nhất, thù lao của các nhân viên ngân hàng cần được điều chỉnh. Giới hạn mức thưởng không phải là 1 giải pháp khả thi bởi các ngân hàng có thể tăng lương cho nhân viên. Tiền thưởng được qui ra các khoản nợ chót bảng (suborndinated debt) có vẻ là 1 ý tưởng có nhiều ưu điểm hơn. Nếu như các ngân hàng gặp rắc rối, chính các nhà lãnh đạo sẽ mất những khoản tiền lớn và như vậy họ có thể tập trung hơn vào công việc quản lý rủi ro. 

 

Thứ hai, thuế áp dụng cho ngành ngân hàng hiện vẫn ở mức thấp. Đánh thuế giá trị gia tăng vào các dịch vụ tài chính cũng là 1 giải pháp. 

 

Thứ ba, hội đồng quản trị của các ngân hàng thường thất bại trong việc qui trách nhiệm cho các giám đốc đầy quyền năng. Cổ đông cần yêu cầu trao nhiều quyền lực hơn cho hội đồng quản trị.  

 

Minh Anh

Theo TTVN/Reuters


Quốc tế nói gì về chính sách lãi suất của Việt Nam?

Ngày đăng : 02/08/2012 - 9:07 PM

 

Quốc tế nói gì về chính sách lãi suất của Việt Nam?

 

Theo nhiều dự báo, với điều kiện lạm phát xuống thấp như hiện nay, nhiều khả năng NHNN sẽ tiếp tục hạ lãi suất trong thời gian tới, với mức dư địa khoảng 2%.

 

Mặc dù còn nhiều tranh cãi, song lãi suất hạ là có cơ sở.

 

Tại bản Báo cáo cập nhật kinh tế Việt Nam được bộ phận nghiên cứu thuộc ngân hàng ANZ công bố hôm nay (2/8), tổ chức này mặc dù cho rằng chính sách hiện tại đang đi đúng hướng với kế hoạch tăng trưởng kinh tế và triển vọng lạm phát giai đoạn 2012-2013 song, những động thái nới lỏng tiền tệ và hỗ trợ tài khóa có thể vẫn tiếp tục được sử dụng.

 

Trong khi đó, cũng trong hôm nay, báo cáo của khối nghiên cứu tại ngân hàng HSBC đi thẳng vào dự báo, với tình hình lạm phát đang chậm lại sẽ tạo cơ hội cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cắt giảm lãi suất thêm nữa.

 

Theo dự kiến của ngân hàng này, việc cắt giảm thêm 1% lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất huy động sẽ được thông báo sớm.

 

Những nhận định này nối tiếp sau một loạt những đánh giá trước đó về hạ lãi suất của các tổ chức quốc tế khác hồi tuần trước. Cụ thể, theo JPMorgan Chase, trong 6 tháng cuối năm, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ sẽ hạ lãi suất thêm ít nhất 2%. Standard Chartered cũng dự báo, lãi suất sẽ giảm tiếp 1% trong quý III.

 

Trong nước, Công ty chứng khoán Bảo Việt tính toán, lạm phát tính theo năm đến cuối năm nay nhiều khả năng sẽ chỉ mức từ 5,5-6,5%. Và theo đó, NHNN sẽ vẫn còn dư địa khoảng 2% cho việc cắt giảm trần lãi suất huy động trong khi vẫn đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền.

 

Mới đây, tại Hội nghị Kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn TPHCM cuối tuần vừa rồi, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, nếu CPI năm nay giảm dưới 7%, lãi suất huy động sẽ có điều kiện tiếp tục giảm xuống dưới 8% vào cuối năm. Đó cũng là cơ sở để vào 2013, một số khoản cho vay ưu đãi có thể giảm xuống dưới 10%.

 

Tuy nhiên, ở góc nhìn khác, HSBC cho rằng, việc cắt giảm lãi suất khó có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động tín dụng bởi các cá nhân và doanh nghiệp đang không muốn vay thêm các khoản nợ hay khó có thể tiếp cận vốn vay vì thiếu các tài sản thế chấp đạt chất lượng cao hoặc đang ở trong tình trạng mắc nợ trầm trọng.

 

Ngoài ra, theo HSBC, NHNN cũng có thể sẽ sử dụng các biện pháp hành chính để thuyết phục các ngân hàng cắt giảm lãi suất cho vay.

 

Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 đã tiếp tục giảm 0,29% so với tháng 6. Nguyên nhân chủ yếu do giá cả nhiên liệu và lương thực tiếp tục giảm tốc. Trong khi đó, tốc độ lạm phát của nhóm hàng phi nhiên liệu, lương thực vẫn đang tăng. Báo cáo của ANZ cho rằng, tốc độ lạm phát sẽ giảm trong quý III lẫn quý IV và chạm mốc 6-7% vào cuối năm.

 

 

Chỉ số CPI chung liên tục giảm trong nửa đầu năm 2012 (Nguồn: ANZ).

 

Trong phiên họp báo Chính phủ thường kỳ được tổ chức hôm 31/7, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết, theo dự tính của Chính phủ, lạm phát chung trong tháng 8 này có thể vẫn sẽ tiếp tục âm (so tháng 7) và cả năm, tỉ lệ lạm phát dự kiến không quá 7% nếu không có thêm những biến động đáng kể về điều hành chính sách.

 

Việc đánh giá có nên tiếp tục giảm lãi suất tiếp hay không vẫn đang còn nhiều tranh cãi. Nhìn chung, khi Chính phủ khẳng định không có thêm 1 gói kích cầu nào cho nền kinh tế đến cuối năm, việc giảm thuế TNDN mới chỉ cứu được doanh nghiệp sống thì hạ lãi suất vẫn là một trong những lối thoát được kỳ vọng cho doanh nghiệp ra khỏi khó khăn.

 

Từng trao đổi với Dân trí, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành có nhận định, với mức lãi suất vay 13-14% hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam thì chưa thể đảm bảo được lợi thế cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực. Cụ thể, chi phí vay mà các doanh nghiệp đối thủ chỉ phải chịu từ 4-7%, do vậy, lãi suất hợp lý phải được kéo xuống dưới 10% thì doanh nghiệp Việt Nam mới phát triển tốt được.

 

Tuy nhiên, Diễn đàn doanh nghiệp ngày hôm nay dẫn lời TS Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương lại cho rằng, dư địa để NHNN hạ lãi suất không còn nhiều do lãi suất cho vay và huy động của các tổ chức tín dụng hiện chênh lệch không quá cao như con số nhìn thấy.

 

Đáng lưu ý là trong những báo cáo về kinh tế Việt Nam gần đây của các tổ chức trong và ngoài nước, triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều rủi ro.

 

Một cách lạc quan, ANZ mặc dù dự đoán tốc độ tăng trưởng trong những tháng sắp tới sẽ được nâng cao nhưng vẫn quan ngại về những rủi ro đối với dự báo tăng trưởng 5,5% cho toàn năm 2012.

 

Những rủi ro này, nhìn chung, bắt nguồn từ những bất lợi của môi trường phát triển kinh tế toàn cầu cũng như tốc độ mở rộng tín dụng nội địa chậm hơn dự đoán. Cụ thể, theo bà Nguyễn Thị Hồng, đến 25/7, tín dụng mới chỉ tăng 0,57%. Điều này gây ra những ảnh hưởng trực tiếp lên nhóm ngành sản xuất công nghiệp - hoạt động kinh tế chủ chốt của Việt Nam trong thời gian qua.

 

Trong khi đó, Ngân hàng Standard Chartered cho rằng GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng 5% trong năm 2012, thấp hơn so với mức dự đoán trước đó là 5,8%.

 

Để thúc đẩy tăng trưởng ở mức hợp lý (5,5-6%) cho cả năm trong bối cảnh hiện nay tăng trưởng bình quân GDP nửa đầu năm mới ở mức 4,38% thì 5 tháng còn lại, Chính phủ sẽ phải tập trung tháo gỡ cho doanh nghiệp có điều kiện giải phóng hàng tồn kho, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Bởi, chính sự phát triển của doanh nghiệp là tế bào tạo nên GDP của cả nền kinh tế.

 

Theo Bích Diệp

Dân trí


 

Tin mới cập nhật