Ngày đăng :
12/12/2011 - 9:02 AM
Điều quan trọng là phải nhận thức được và hành động đúng để kiềm chế được lạm phát, bằng chính sách lãi suất cao. Không nên vì sự hy sinh trong ngắn hạn để kêu gọi làm ngược lại, hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao.
Bài này được viết ra như một lời phúc đáp, tuy không phải là tổng quát và đầy đủ, cho luồng ý kiến kêu gọi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạ lãi suất cho vay (thông qua nới lỏng chính sách tiền tệ) để "cứu" các doanh nghiệp và các ngành như bất động sản, ngân hàng và chứng khoán. Thường có hai lý do chính được đưa ra để biện minh cho lời kêu gọi này là:
Thứ nhất, với lãi suất cao như hiện nay sẽ là thảm họa cho nền kinh tế, làm mất sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, làm các doanh nghiệp phá sản vì không doanh nghiệp nào làm ra lãi với tỷ suất lợi nhuận bằng hoặc lớn hơn lãi suất đi vay, ví dụ, lên tới trên 18%/năm. Và tiếp theo là thảm họa đến với các ngân hàng. Doanh nghiệp phá sản thì sẽ làm giảm tăng trưởng, gia tăng thất nghiệp, gia tăng tội phạm..v.v...
Thứ hai, để hạ lãi suất cho vay thì phải hạ lãi suất huy động. Nếu hạ lãi suất huy động (ví dụ, bằng công cụ trần lãi suất huy động như hiện tại đang áp dụng) thì cũng không sợ bị người dân rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng vì người dân cũng chẳng còn lựa chọn khả dĩ nào khác (Ví dụ, đầu tư vào vàng, bất động sản, ngoại tệ thì cũng không có lãi vì giá đã ở mức cao). Ngụ ý tức là cứ mạnh dạn mà hạ lãi suất huy động đi, không cần phải bận tâm chuyện thiếu hụt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hay áp lực lạm phát gia tăng vì tiền không còn chui vào hệ thống ngân hàng nữa.
Tuy nhiên, điều này cần phải được phản biện bằng các tính toán cẩn thận, bằng các thực tế đã chứng thực không nên chủ quan. Phần tiếp theo đây sẽ đưa ra một số lập luận để phản biện lại luồng ý kiến này.
Lãi suất cao nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng khả quan
Chúng ta bắt đầu bằng việc nêu ra một con số rất phổ thông. Đó là tốc độ tăng trưởng GDP trong năm nay, được dự đoán ở mức xung quanh 6%. Con số này có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh lãi suất cho vay thực tế đứng ở mức rất cao như cả năm vừa qua (cứ cho là ở mức trung bình 18%/năm)?
Theo luồng ý kiến kêu gọi hạ lãi suất nêu trên, thì lẽ ra với mức lãi suất "chết chóc" như thế thì nền kinh tế phải "đình trệ" (là từ khá được ưa dùng mới cách đây vài tháng). Nhưng với tốc độ tăng trưởng GDP lên tới mức 6% thì kết luận này, nói cho đơn giản, là sai hoàn toàn.
Tốc độ này cũng chỉ thấp hơn 1 hoặc 2 điểm phần trăm so với những thời kỳ "cực thịnh" của nền kinh tế Việt Nam khi nó tăng trưởng với tốc độ trung bình trên 7% trong nhiều năm với lãi suất thường không bao giờ quá 2 chữ số.
Cũng cần lưu ý thêm rằng tốc độ tăng trưởng trong thời vàng son như đã qua là rất gần với tốc độ "chụp giật" nếu xét đến cách thức và nguồn lực tăng trưởng, và nền kinh tế kiểu đó sớm hay muộn cũng bị "gãy cánh", không thể kéo dài hàng thập kỷ, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác.
Lãi suất cao không dẫn đến đổ vỡ trong nền kinh tế và DN phá sản hàng loạt
Ta cũng phải thừa nhận rằng quả là có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, đóng cửa, ngừng hoạt động, hoặc phá sản (con số sơ bộ khoảng gần 50.000 doanh nghiệp phá sản trong năm nay). Nhưng ta cũng không được bỏ qua thực tế rằng còn lớn hơn thế là con số doanh nghiệp mới được thành lập thêm, cũng trong năm nay (dù ít hơn mọi năm nhưng vẫn có hơn 70.000 doanh nghiệp mới ra đời).
Điều này tự thân nó nói lên rằng lãi suất cao không nhất thiết gây ra đổ vỡ. Lãi suất cao chỉ gây ra đổ vỡ trong nền kinh tế và buộc hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản khi và chỉ khi doanh nghiệp không được tăng/tăng được giá bán sản phẩm và dịch vụ của mình.
Điều này dễ thấy là không hề xảy ra trên thực tế, và vì thế mới có lạm phát và lạm phát mới có xu hướng tăng! Ngay đến cả hàng bình ổn giá mà người ta cũng còn đòi được tăng giá và đã được cho phép tăng giá trên thực tế cơ mà?
Lãi suất cao không có nghĩa là DN không làm ra lợi nhuận đủ trả lãi vay
Như trên đã nói, ta rất hay thấy kiểu lập luận rằng với lãi suất cho vay đến. Ví dụ 18%/năm trong khi lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp không quá 18% nên càng sản xuất càng lỗ, dẫn đến doanh nghiệp phải đóng cửa hàng loạt, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Không khó để thấy cái sai trong lập luận này. Đại đa số doanh nghiệp hoạt động dựa trên đòn bẩy tài chính. Họ chỉ có một đồng vốn nhưng đi vay ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán, cổ phiếu để huy động thêm một hoặc nhiều hơn một đồng vốn khác.
Trong khi đó, mức lợi nhuận mà người ta thường hay nhắc đến có thể chỉ là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên tổng doanh thu, chứ không phải là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên vốn chủ sở hữu/vốn tự có của chủ doanh nghiệp.
Vì vậy, thậm chí mức lợi nhuận ròng 10% tính trên tổng doanh thu (chứ chưa nói đến mức 18%) cần phải hiểu là một mức lợi nhuận rất khả quan rồi. Ngay cả với nhiều ngân hàng ở Việt Nam được cho là có lãi "khủng" thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cũng chỉ mong được ở mức 18% này thì đã được coi là thành công rồi.
Tóm lại, cho dù lãi suất đi vay có là trên 18% chăng nữa thì cũng không hề đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không có lãi hoặc lãi không đủ đề bù đắp tiền trả lãi vay. Nói cách khác, doanh nghiệp vẫn hoàn toàn có thể sống khỏe với lãi suất trên 18% hoặc hơn nữa.
Tất nhiên, những doanh nghiệp nào có tỷ lệ đòn bẩy tài chính càng cao thì càng dễ phải đối mặt với rủi ro phá sản cao hơn vì không trả được nợ khi đến hạn. Nhưng điều này là thuộc về phương châm kinh doanh và lề lối quản trị của doanh nghiệp, và sự phá sản, nếu có, của những doanh nghiệp này âu cũng là một cuộc sàng lọc tự nhiên để còn lại những doanh nghiệp lành mạnh, sống khỏe bằng thực lực của mình.
Lãi suất cao không nhất thiết làm giảm an sinh xã hội
Cũng cần phải nói thêm, những người ủng hộ hạ lãi suất và nới lỏng tiền tệ cũng hay dùng lý lẽ "đảm bảo an sinh xã hội", với lập luận rằng khi lãi suất tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng. Kết quả là làm gia tăng thất nghiệp, giảm tốc độ tăng tiền lương (gắn liền với tăng trưởng kinh tế) trong bối cảnh giá cả tăng cao, tức là làm giảm an sinh xã hội.
Thực tế không phải luôn như vậy. Với chính sách để cho lãi suất lên cao, lạm phát sẽ giảm dần vì tổng cầu bị thu hẹp, đến lượt nó lại có tác dụng kéo lãi suất đi xuống vì cầu tín dụng giảm đi (với giả sử NHNN giữ nguyên cung tiền).
Quá trình này là tự diễn tiến với kết cục là cả lạm phát và lãi suất trở về mức "bình thường" và tăng trưởng nhờ đó được phục hồi cùng với cầu được phục hồi. Thời gian phục hồi/quay trở về mức bình thường của lạm phát, lãi suất, tổng cầu và tăng trưởng sẽ phụ thuộc phần lớn vào mức độ quyết liệt của NHNN trong việc nâng và duy trì lãi suất cao và sự phục hồi lòng tin của giới đầu tư vào triển vọng nền kinh tế nói chung và tính minh bạch của Chính phủ và NHNN nói riêng.
Nếu suôn sẻ, thất nghiệp do lãi suất tăng cao nếu có thì chỉ là trong ngắn hạn để rồi sẽ biến mất khi tăng trưởng phục hồi (mà thực ra cho đến giờ đã có thống kê đáng tin cậy nào cho thấy nạn thất nghiệp đang gia tăng đáng kể đâu, cho dù tăng trưởng có giảm đi một chút.
Và người ta cũng thường "quên" không nói đến số việc làm mới được tạo ra, mà chỉ chăm chăm vào số việc làm mất đi). Tiền lương thực tế nếu có bị bào mòn dưới thời lạm phát cao sẽ không còn bị bào mòn nữa khi lạm phát chững lại nhờ chính sách lãi suất cao. Và tiền lương thực tế cũng sẽ tiếp tục cải thiện khi tăng trưởng phục hồi trở lại với lạm phát thấp.
Như vậy, với chính sách lãi suất cao, an sinh xã hội nếu có bị ảnh hưởng thì rất có thể chỉ là trong ngắn hạn cho đến khi nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo phát triển lành mạnh trong dài hạn của nó.
Lãi suất cao không nhất thiết làm gia tăng áp lực lạm phát
Tiếp theo, xin bàn đến lập luận của rất nhiều người cho rằng lãi suất cao sẽ làm tăng áp lực lạm phát vì lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, và tức là làm tăng giá bán hàng hóa dịch vụ.
Nhưng như vậy người ta mới chỉ nhìn ở góc độ cung mà quên mất phía cầu. Khi giá hàng hóa dịch vụ tăng lên mà tiền lương chưa kịp tăng tương ứng (tiền lương thường được điều chỉnh với độ trễ so với lạm phát) thì tổng cầu có xu hướng giảm do thu nhập khả dụng thực tế của dân cư giảm đi.
Minh họa hiển nhiên là người lao động ngày càng phải "thắt lưng buộc bụng" trong cơn bão giá. Mà tổng cầu giảm đi sẽ đem lại hiệu ứng giảm lạm phát như nói ở trên. Tổng cầu còn giảm bởi lãi suất tăng cao làm mọi chủ thể kinh tế khác phải đắn đo khi đi vay với lãi suất cao để chi tiêu, đầu tư.
Ngược lại, hạ lãi suất quá sớm không nhất thiết mang lại lợi ích cho nền kinh tế
Nếu máy móc hoặc cố tình hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao thì có nghĩa là chúng ta và NHNN đã tự mình tước đi một công cụ chính trong công cuộc chống lạm phát, và, nguy hại hơn, sẽ càng làm tăng áp lực lạm phát theo cơ chế tự diễn tiến (lãi suất giảm, tiền thoát khỏi hệ thống ngân hàng càng nhiều hơn, vòng quay lưu thông tiền càng lớn hơn, áp lực gia tăng giá cả/lạm phát càng nhiều lên, NHNN càng phải in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nói chung và khu vực kinh tế nhà nước nói riêng...).
Liên quan đến ý trên, nhiều người cho rằng nếu có hạ lãi suất huy động (nhằm làm cơ sở để giảm lãi suất cho vay) thì cũng không sợ bị dân rút tiền gửi ra khỏi hệ thống ngân hàng, vì họ cũng chẳng biết đầu tư vào đâu, khi thị trường vàng, ngoại tệ và bất động sản đều khó khăn, rủi ro.
Đây là một kết luận rất chủ quan. Các thị trường trên có khó khăn, rủi ro thì cũng không đồng nghĩa với không có cơ hội sinh lời, hoặc ít nhất là bảo toàn giá trị tài sản (so với gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất thấp, thậm chí còn thấp hơn cả mức lạm phát).
Lập luận đại loại như giá vàng đã lên đỉnh rồi thì người dân cũng chẳng mua vào làm gì nữa cũng là kiểu lập luận rất phi kinh tế, vì đã không ít người trên quả đất này sai lầm về đỉnh của giá vàng trong suốt mấy thập kỷ qua.
Chưa kể, giá vàng tính theo VND ở hầu hết mọi thời điểm còn tăng nhanh hơn cả lạm phát ở Việt Nam trong cùng kỳ nên giữ vàng vẫn có lợi hơn, đặc biệt khi lãi suất huy động bị bóp méo so với lạm phát.
Thêm nữa, khi lãi suất tiền gửi không hấp dẫn, người ta sẵn sàng mạo hiểm hơn để tìm những cơ hội sinh lời lớn hơn, và thị trường tín dụng "đen" là một ví dụ điển hình, nơi cung thật và cầu thật gặp nhau tại một cái giá thật.
Nói chung, thực tiễn lâu dài sống chung với lạm phát ở Việt Nam đã cho thấy người dân khôn ngoan, thực dụng thế nào và công cụ lãi suất quan trọng thế nào trong việc chống lạm phát. Vì thế, xin đừng mạo hiểm đánh cuộc với sự khôn ngoan, thực dụng của người dân trước nhu cầu chính đáng bảo toàn giá trị tài sản của họ.
Từ những con số biết nói và những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng, tuy đúng là có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, nhưng đó không phải là hiện tượng phổ quát cho cả nền kinh tế. Vậy, cũng không phải là quá vội vã khi kết luận rằng lãi suất cao đã không dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế như người ta hoặc là đe dọa, hoặc là e sợ.
Vì thế, xin đừng lấy đó (lãi suất cao làm doanh nghiệp phá sản) làm cái cớ để vận động chính sách đi ngược lại lợi ích chung của cả nền kinh tế. Còn những người điêu hành kinh tế cũng không được nao núng với những cái cớ như vậy để ra những chính sách làm phương hại cả nền kinh tế.
Trên hết, điều quan trọng là phải nhận thức được và hành động đúng để kiềm chế được lạm phát, bằng chính sách lãi suất cao. Không nên vì sự hy sinh trong ngắn hạn (chưa được chứng thực) để kêu gọi làm ngược lại, hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao.
Theo TS Phan Minh Ngọc
VEF
|
Ngày đăng :
11/12/2011 - 3:34 PM
"Nếu như đầu năm, ngân hàng anh sẵn sàng giải ngân cho các hợp đồng vay vốn hàng chục tỷ đồng thì nay một vài tỷ cũng khó", một cán bộ ngân hàng chia sẻ thật.
Chia sẻ về việc “chạy đôn chạy đáo” lo vốn để mở rộng sản xuất cuối năm, anh Đoàn Tiến Dũng, chủ xưởng sản xuất đèn lồng tại Hưng Yên cho biết: “Đầu tháng 11, tôi mang sổ đỏ của gia đình làm tài sản thế chấp để vay một tỷ đồng nhưng đến ngân hàng nào cũng nhận được lời hẹn “chờ năm tới”. Ngân hàng họ nói, thời điểm này không mở rộng khách hàng vay mới, chỉ ưu tiên những khách hàng truyền thống”.
Anh Nguyễn Đức Lâm, Giám đốc một công ty phần mềm tại Hà Nội than thở: “Chạy đi vay vốn ngân hàng dịp này bở cả hơi tai. Tôi cần một khoản vốn khá lớn để nhập hàng nhưng đến ngân hàng bị khất hẹn sang đầu năm hoặc yêu cầu tài khoản đảm bảo rất nghiêm. Trước thực tế này, tôi đã phải về huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ an hem, họ hàng”.
Xác nhận việc này, cán bộ tín dụng một ngân hàng tại Hà Nội (xin giấu tên) thừa nhận: Nếu như đầu năm, ngân hàng anh sẵn sàng giải ngân cho các món vay trên 10 tỷ, còn hiện tại, kể cả những khách hàng thân thiết có nhu cầu vay vốn phải gửi kế hoạch trước để ngân hàng cân đối nguồn.
Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu của các tổ chức tín dụng trên cả nước hiện ở mức 15 - 18%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 18 - 21%/năm, thấp nhất 15%/năm, còn cho vay lĩnh vực phi sản xuất lên tới 22 - 25%/năm. Có thể thấy rằng, lãi suất cho vay ra của các ngân hàng hiện vẫn rất cao nhưng không phải khách hàng có nhu cầu vay vốn đều được đáp ứng ngay.
Giám đốc một chi nhánh ngân hàng trên phố Kim Liên mới (Hà Nội) cho hay:Hiện nay, các hoạt động cho vay đối với khách hàng giảm đáng kể, ngân hàng chỉ cho các khác hàng truyền thống với các khoản vay nhỏ, còn việc phát triển khách hàng mới trong giai đoạn hiện nay tạm thời ngừng.
Được biết, nguyên nhân của việc khan vốn trong thời gian gần đây là do các ngân hàng nhỏ không huy động được vốn trên thị trường 2 và nguồn tiền trên thị trường 2 cũng không dồi dào như trước. Bởi các khoản vay trên thị trường 2 thường không có tài sản bảo đảm và các ngân hàng vay nhau theo dây chuyền nên khi một vài ngân hàng mất thanh khoản thì các ngân hàng khác cũng bị hệ luỵ.
Thứ hai là do các ngân hàng này dùng tương đối lớn nguồn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn dẫn đến mất thanh khoản tạm thời. Việc các ngân hàng nhỏ tung ra các gói huy động vốn với lãi suất quá cao, dẫn đến các khoản cho vay ra lãi suất ngoài sức chịu đựng của các doanh nghiệp dẫn tới tình trạng doanh nghiệp không trả được nợ và ngân hàng mất thanh khoản.
Thứ ba là do hiện nay các doanh nghiệp đi vay vốn ở các tổ chức tín dụng gặp khá nhiều khó khăn. Vì vậy họ phải rút nguồn vốn tiền gửi từ các tổ chức tín dụng về để đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp đó rút vốn về để phục vụ cho các tổ chức tín dụng nơi mình góp cổ phần.
Thứ tư là do Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại tăng dự trữ bắt buộc đối với các khoản nợ tín dụng xấu.
Thứ năm là do các tổ chức tín dụng trước đây đã cho vay đầu tư các dự án bất động sản khá nhiều, đến nay nhiều dự án chưa hoàn thành có nhu cầu vay thêm vốn nhưng không vay được. Trong khi đó, thị trường bất động sản ảm đạm và giảm giá mạnh trong thời gian vừa qua, dẫn đến việc các nhà đầu tư giảm giá bất động sản và bán tống bán tháo với mục đích có tiền để tiếp tục hoàn thiện hoặc trả nợ cho ngân hàng nhưng cũng không thành công.
Nhận định về khả năng phục hồi thị trường vốn, giới chuyên gia dự báo: Trong vòng 2 quý tới, thị trường vốn khó phục hồi mức như cũ, do lạm phát còn cao, nền kinh tế chưa phục hồi nên các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chưa khôi phục được việc sản xuất kinh doanh dẫn đến việc trả nợ các khoản nợ cho ngân hàng là chưa thể. Hơn nữa, tình hình thị trường bất động sản đóng băng như hiện nay cũng sẽ là một nhân tố tác động đến thị trường vốn.
Theo Nguyễn Hiền
Dân Trí
|
Ngày đăng :
11/12/2011 - 11:54 AM
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, bà Phó Oánh tuyên bố nước này vẫn là một phần trong các nỗ lực quốc tế nhằm hỗ trợ châu Âu vượt qua cuộc khủng hoảng nợ công.
Ngày 10/12, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, bà Phó Oánh tuyên bố nước này vẫn là một phần trong các nỗ lực quốc tế nhằm hỗ trợ châu Âu vượt qua cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay, đồng thời bác bỏ ý kiến cho rằng Bắc Kinh khoanh tay đứng nhìn trong khi Cựu lục địa đang vật lộn với khủng hoảng.
Phát biểu với báo giới bên lề một hội nghị ở Vienna, bà Phó Oánh nói: "Trung Quốc sẽ là một phần trong nỗ lực quốc tế để hỗ trợ Châu Âu. Chúng tôi đã làm nhiều điều và người dân châu Âu biết rõ điều này.... Trung Quốc sẽ tiếp tục là một phần của nỗ lực này bởi chúng ta đều liên quan và tương hỗ lẫn nhau. Chúng ta đều chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này và cùng trên một con thuyền."
Theo Reuters, là quốc gia có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, Trung Quốc là một trong số ít các chính phủ có đủ tiền mặt để mua một lượng đáng kể trái phiếu chính phủ của Châu Âu nhằm giúp Cựu lục địa thoát khỏi khủng hoảng.
Theo Vietnamplus
|
Ngày đăng :
11/12/2011 - 11:49 AM
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố sẽ không đóng góp tài chính vào Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) để giải cứu các quốc gia châu Âu với lý do "đã có các phương án khác".
Với lý do "đã có các phương án khác", ngày 9/12, Chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố sẽ không đóng góp tài chính vào Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) để giải cứu các quốc gia châu Âu; trong đó có Italy và Tây Ban Nha, nếu những nước này cũng có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ như Hy Lạp và Ireland.
Theo phóng viên TTXVN tại Washington, thông báo này được đưa ra ngay sau khi các nhà lãnh đạo 27 nước thành viên Liên minh châu Âu (EU), nhóm họp tại Brussels, Bỉ, nhất trí cùng đóng góp 270 tỷ USD để IMF có đủ tiền tung ra cứu trợ trong trường hợp một thành viên lớn của khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) gặp khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn từ thị trường.
Lý giải về quyết định trên của Nhà Trắng, trong các bài phát biểu tại Brussels khi đang cùng các đồng nghiệp châu Âu bàn cách cứu Lục địa Già ra khỏi cuộc khủng hoảng nợ, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy Geaithner nhấn mạnh IMF đã được cung cấp đủ tiền và bản thân châu Âu cũng có đủ các nguồn lực tài chính để tự giải quyết các khó khăn của mình.
Một quan chức Mỹ tiết lộ Nhà Trắng hiện đang cân nhắc các phương án để tăng cường khả năng tài chính của IMF mà không cần phải sử dụng tiền thuế của người dân Mỹ để đóng góp cho IMF.
Vấn đề này sẽ được đưa ra thảo luận tại hội nghị Bộ trưởng Tài chính các nền kinh tế lớn, dự kiến được tổ chức vào tháng 2/2012.
Mỹ hiện là nước đóng góp lớn nhất cho IMF, chiếm tới 16% tổng số quỹ hoạt động của tổ chức này. Năm 2009, Mỹ đã có những khoản đóng góp vào quỹ cứu trợ khẩn cấp của IMF để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu sau khi tập đoàn tài chính và đầu tư danh tiếng của Mỹ là Lehman Brothers bị phá sản.
Năm 2010, Mỹ cũng đã cam kết đóng góp thêm cho IMF, song khoản cam kết đóng góp này cho tới nay vẫn chưa được Quốc hội Mỹ thông qua./.
Theo Vietnamplus
|
Ngày đăng :
10/12/2011 - 10:04 PM
Nếu quá vội vàng thắt chặt chính sách tài khóa, tiền tệ, lãnh đạo các nền kinh tế giàu có nhất thế giới sẽ đẩy kinh tế thế giới vào Đại Khủng hoảng lần 2.
Năm 2008, thế giới tránh được đợt Đại Khủng hoảng lần 2 do tránh được sai lầm từng dẫn đến Đại Khủng hoảng lần 1. Tuy nhiên, châu Âu và Mỹ còn rất nhiều bài học cần phải ghi nhớ.
Trong ngày sinh nhật lần thứ 90 của Milton Freidman, kinh tế gia đạt giải Nobel, vào năm 2002, Ben Bernanke đã nói với Friedman: “Ông nói đúng, chính chúng tôi đã gây ra nó.” Chủ tịch Fed khi đó đang nói đến kết luận của Milton rằng chính người đứng đầu các Ngân hàng Trung ương trên thế giới chịu trách nhiệm cho những gì xảy ra trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. Ben Bernanke nói thêm: “Thế nhưng cũng nhờ có ông, chúng tôi sẽ không bao giờ mắc phải sai lầm của lịch sử.” 9 năm sau đó, người đồng cấp của ngài Bernanke đang vui mừng vì đã làm được điều tương tự: “Chúng ta đã ngăn được Đại Suy thoái.”
Cú sốc đối với kinh tế thế giới năm 2008 giống như cái đã gây ra Đại Suy thoái lần 1. 12 tháng sau khi hoạt động kinh tế lên mức đỉnh cao vào năm 2008, hoạt động sản xuất công nghiệp sụt giảm với tốc độ tương đương như năm đầu của Đại Khủng hoảng. Giá cổ phiếu và thương mại toàn cầu sụt giảm mạnh. Dù vậy lần này không có Đại Khủng hoảng nào.
Từ mức đỉnh xuống mức đáy, sản lượng công nghiệp giảm khoảng 13% trong khi đó tỷ lệ này vào thập niên 1930 lên tới 40%. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ và châu Âu lên mức khoảng 10% trong cuộc khủng hoảng gần đây, nhưng trong thập niên 1930 tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25%. Khác biệt này có được nhờ các nhà hoạch định chính sách đã học được rất nhiều sai lầm từ Đại Suy thoái năm 1930.
Nhiều chuyên gia kinh tế vẫn tiếp tục tranh cãi nhau về việc yếu tố nào đã khiến Đại Suy thoái kéo dài và gây ra hậu quả tồi tệ đến như vậy? Một số chuyên gia kinh tế nhấn mạnh đến yếu tố cấu trúc như chi phí lao động. Bà Amity Shlaes, nhà kinh tế sử học, cho rằng chính sự can thiệp của chính phủ đã gây ra Đại Khủng hoảng. Bà nhấn mạnh đến việc cựu Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã trừng phạt những người nông dân bởi họ đã bán gà quá rẻ.
Các chuyên gia kinh tế còn chia sẻ quan điểm rằng chính các biện pháp thắt chặt tài khóa và tiền tệ đã khiến tình hình vốn đã xấu lại càng trở nên tồi tệ hơn. Lần này, chính phủ các nước không mắc sai lầm nào như vậy. Thập niên 1930, chính phủ và Ngân hàng Trung ương các nước đua nâng lãi suất, sau thời kỳ chấn động năm 2008, các nhà hoạch định chính sách đồng thuận đưa ra chính sách nới lỏng.
Sau Đại Khủng hoảng 1930, cộng đồng quốc tế trở nên thiếu hợp tác, chiến tranh tiền tệ và cuộc chiến bảo hộ bùng phát; ngược lại đến năm 2008 và 2009 lãnh đạo các nền kinh tế thế giới khá đoàn kết. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh cũng đã có quan điểm đúng đắn.
Khi xem xét kỹ hơn, bức tranh không mấy ấn tượng như vậy. Trong 2 lĩnh vực quan trọng, chính phủ nhóm nước giàu sẽ có thể vẫn mắc phải 2 sai lầm của thập niên 1930. Thế giới các nước giàu có thể lặp lại chính sách thắt chặt tài khóa đã đẩy nước Mỹ vào suy thoái kinh tế trong Đại Khủng hoảng 1937 – 1938.
Cuộc khủng hoảng tại châu Âu rất giống biến động tài chính tiêu cực cuối thập niên 1920 và đầu 1930, khi đó các nền kinh tế liên tiếp sụp đổ như chuỗi domino do chịu áp lực từ các biện pháp thắt chặt ngân sách, tiền tệ thắt chặt và thiếu ngân hàng đứng ra làm bên cho vay cuối cùng.
Tất cả cùng đi xuống
Những năm 2000, việc kích thích kinh tế dễ dàng hơn nhiều so với thập niên 1930. Chế độ an sinh xã hội, được đưa ra sau thời kỳ Đại Khủng hoảng, đồng nghĩa với việc người thất nghiệp hiện nay vẫn có tiền để chi tiêu, như vậy kinh tế có được thêm một yếu tố đảm bảo ngăn suy thoái mà chính phủ không cần phải can thiệp quá mạnh tay.
Gói chi tiêu công, giảm thuế mà cựu Tổng thống Mỹ Herbert Hoover đưa ra sau khi thị trường chấn động năm 1929 có quy mô chưa đầy 0,5% GDP. Gói kích cầu của Tổng thống Obama trong năm 2009 và 2010 tương đương đến 2-3% GDP.
Cựu Tổng thống Roosevelt nâng chi tiêu lên mức tương đương 10,7% GDP vào năm 1934, ở thời điểm này kinh tế Mỹ đã đang tăng trưởng mạnh. Đến năm 1936, GDP Mỹ sau khi điều chỉnh với lạm phát đã trở lại mức của năm 1929. Việc gói chi tiêu đã giúp kinh tế phục hồi đến đâu hiện vẫn còn đang bị tranh cãi. Chuyên gia kinh tế như John Cochrane thuộc đại học University of Chicago và Robert Barro thuộc đại học Harvard khẳng định nó chẳng mang đến chút tác dụng nào. Họ tuyên bố các chương trình kích thích tài khóa không bao giờ phát huy tác dụng.
Những ai tin rằng các biện pháp tài khóa phát huy tác dụng tuy nhiên thường có xu thế nghĩ rằng vào thập niên 1930, chính sách chi tiêu kém quan trọng hơn chính sách tiền tệ, cái mà họ coi như nguyên nhân chính của mọi vấn đề. Trong một nghiên cứu công bố năm 1989, ông Bernanke và Martin Parkinson, hiện đang là quan chức cao cấp tại Bộ Tài chính Úc khẳng định thay cho việc thực sự giúp kinh tế phục hồi, chương trình chi tiêu “New Deal” có thể coi như dọn đường cho sự phục hồi thực của nền kinh tế. Một số chuyên gia kinh tế khác như Paul Krugman lại muốn nói nhiều hơn đến gói chi tiêu kích cầu.
Cho đến khi nợ công lên mức 40% GDP (cao so với thời điểm lúc bấy giờ) thế nhưng chỉ tương đương một nửa so với Đức hiện nay, Quốc hội Mỹ giảm mạnh chi tiêu, tăng thuế và hạ được thâm hụt tương đương 5,5% GDP trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1938, dù vậy con số này vẫn còn lớn hơn so với mục tiêu của Hy Lạp trong 2 năm sắp tới.
Cùng lúc đó, Fed tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc (từ giữa năm 1937 đến giữa năm 1938), khuyến khích các ngân hàng rút tiền ra khỏi nền kinh tế. Bộ Tài chính Mỹ bắt đầu hạn chế nguồn cung tiền và hoạt động nhập khẩu vàng. Trong năm 1937 và 1938, suy thoái khiến GDP thực giảm 11% và thất nghiệp tăng thêm 4% lên mức cao nhất khoảng từ 13% đến 19% theo cách tính riêng của từng người.
Hiện nay, chính sách tiền tệ chưa đến giai đoạn đảo ngược giống như nước Mỹ thập niên 1930.ECB dự kiến sẽ tiếp tục hạ lãi suất cơ bản đồng euro. Thế nhưng tại nhiều khu vực trên thế giới, chính sách tài khóa đang chuyển biến theo hướng đó. Gói kích thích của Tổng thống Obama đang có thu hẹp dần, chính quyền các bang đang giảm bớt chi tiêu.
Các ứng viên của Đảng Cộng hòa đang có ý định tranh cử Tổng thống năm 2012 liên tục tuyên bố rằng chương trình chi tiêu của chính phủ chẳng mang đến tác dụng gì ngoại trừ khiến gánh nặng nợ nần của thế hệ tương lai tăng cao hơn. Tổng thống Obama đã nói đến giảm chi tiêu. Nếu chương trình giảm thuế và hỗ trợ thất nghiệp khẩn cấp không còn được duy trì, tăng trưởng kinh tế trong năm 2012 sẽ đi xuống.
Câu chuyện không chỉ của riêng nước Mỹ. Dưới thời của David Cameron, chính phủ Anh đang nợ nần cũng đưa ra chương trình thắt chặt tài khóa mạnh tay nhằm ngăn niềm tin vào tín nhiệm tín dụng của nước này sụp đổ. Nó cũng giống như khi cựu Bộ trưởng Tài chính Snowden đưa ra chính sách thắt chặt ngân sách vào năm 1931 bằng biện pháp tăng thuế và giảm chi tiêu. Khi đó, niềm tin không được phục hồi và người Anh buộc phải hạ giá đồng bảng, bỏ chế độ bản vị vàng.
Lần này, chính phủ Anh đã giúp khôi phục được niềm tin của nhà đầu tư và giảm lợi suất trái phiếu chính phủ nhưng lại đối đầu với khả năng suy thoái kinh tế lần 2 do chịu tác động từ nhiều vấn đề tại khu vực đồng tiền chung châu Âu. Vì vậy, khả năng cú sốc xảy đến khi chính phủ áp dụng biện pháp thắt chặt tài khóa cần phải được tính toán kỹ càng.
Theo TTVN
|