Thấy gì từ kinh tế 4 tháng?

Ngày đăng : 26/04/2012 - 1:43 PM

 

Lạm phát thấp, cán cân thanh toán được cải thiện, nhưng sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn do việc tiếp cận vốn khó khăn, đầu tư, tiêu dùng co lại... Đó là những nét đặc trưng của kinh tế 4 tháng đầu năm 2012.

Lạm phát - biểu hiện cụ thể là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) - vấn đề nóng nhất trong hai năm qua đã được kiềm chế một bước quan trọng. CPI tháng 4, dù xét dưới góc độ nào (tháng sau so với tháng trước, sau 4 tháng, sau 1 năm) cũng thấp nhất so với nhiều tháng hay cùng kỳ nhiều năm trước đó. CPI tính theo năm có thể còn tiếp tục giảm trong mấy tháng nữa và “đáy” CPI tính theo năm có thể sẽ rơi vào tháng 7 hoặc tháng 8. 

Mặc dù chưa thể chủ quan khi lạm phát có thể trở lại vào cuối năm nay, đầu năm sau (như đã từng xảy ra và thường lặp đi, lặp lại nhiều năm trước) do còn có những yếu tố gây áp lực, nhưng tính chung cả năm 2012 vẫn đạt được mục tiêu tăng dưới 10%, thậm chí có thể chỉ tăng khoảng trên dưới 6,5%.

Cán cân thanh toán được cải thiện thể hiện trên nhiều mặt. Cán cân thương mại hàng hóa - thể hiện ở nhập siêu - trong 4 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước đã giảm cả về kim ngạch tuyệt đối (0,2 tỷ USD so với 4,83 tỷ USD), cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (1,2% so với 17,7%). xuất khẩu tăng cao hơn nhập khẩu, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. 

Ước tính trong quý 1, cán cân vãng lai thặng dư gần 2 tỷ USD, cán cân vốn và tài chính thặng dư, nên cán cân thanh toán tổng thể thặng dư 2 tỷ USD (cả năm 2010 thâm hụt 3,1 tỷ USD; năm 2011 thặng dư 2,65 tỷ USD, trong đó quý 1 thâm hụt 126 triệu USD). Dự trữ ngoại tệ đạt khoảng 9 tuần nhập khẩu, tuy vẫn còn thấp hơn mức 12 tuần nhập khẩu theo thông lệ quốc tế, nhưng đã được cải thiện. 

Đáng lưu ý, dự trữ ngoại tệ tăng, trong khi tỷ giá ổn định (năm 2009, 2010 giá USD tăng khoảng 10%, năm 2011 chỉ tăng 2,24%, 4 tháng 2012 giảm 1,04% làm cho khả năng cả năm chỉ tăng 2-3% theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước). 

Như vậy, vấn đề nóng thứ hai là nhập siêu đã được giảm nhiệt, với niềm vui do xuất khẩu tăng cao hơn nhập khẩu, nhưng cũng có sự lo ngại do nhập khẩu, nhất là nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước bị giảm khá sâu, trong đó có một phần quan trọng do sự suy giảm tăng trưởng sản xuất, kinh doanh.

Tăng trưởng sản xuất, kinh doanh vẫn còn gặp khó khăn. Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, chỉ số công nghiệp tháng 4 tăng cao hơn, nhờ đó tính chung 4 tháng đã tăng cao hơn số ước tính trong quý 1 (4,3% so với 4%). Tuy nhiên, đó vẫn còn là tốc độ tăng rất thấp so với cùng kỳ năm trước và với vai trò là đầu tầu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. 

Khó khăn vẫn tiếp tục diễn ra ở hai đầu. Ở đầu vào, việc tiếp cận vốn vẫn khó khăn, một phần do lãi suất của các ngân hàng thương mại dù đã giảm xuống nhưng vẫn còn rất cao, một phần do chưa đáp ứng được các điều kiện vay vốn của các doanh nghiệp. Tăng trưởng tín dụng quý 1 mang dấu âm tới gần 2% là một biểu hiện của suy giảm tăng trưởng. 

Đáng lưu ý, tình trạng “té nước theo giá, tát nước theo xăng” trước đây tuy vẫn còn nhưng nay lại xuất hiện tình trạng “té nước theo CPI” của các hàng hoá, dịch vụ quan trọng đã tranh thủ tăng giá khi CPI tăng chậm lại, bồi thêm khó khăn cho doanh nghiệp kiểu như hai lần tăng giá xăng dầu với tốc độ cao hoặc đưa ra thông điệp giá điện có thể tăng trên dưới 10% sau tuyên bố hùng hồn rất ấn tượng đối với lòng tin của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ khi mới nhậm chức...

Ở đầu ra, tiêu thụ rất khó khăn, tăng trưởng rất thấp, tồn kho tiếp tục tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, nếu loại trừ yếu tố giá, tăng với tốc độ thấp chỉ bằng một nửa tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước.

Sự suy giảm tăng trưởng biểu hiện rất rõ là có hàng chục phần trăm tổng số doanh nghiệp ngừng sản xuất, làm thủ tục phá sản, ngừng nộp thuế...; từ hàng chục năm nay mới có tình trạng thu nội địa của ngân sách nhà nước giảm so với cùng kỳ năm trước.

Sự suy giảm tăng trưởng kinh tế cảnh báo ba vấn đề lớn có quan hệ chặt chẽ với nhau:

- Tăng trưởng kinh tế cả năm sẽ khó đạt được mục tiêu theo nghị quyết của Quốc hội.

- Nếu để đạt được mục tiêu tăng trưởng thì phải tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, thì lạm phát sẽ quay lại vào cuối năm nay và đầu năm sau, sẽ gặp lại vòng luẩn quẩn như đã từng xảy ra.

- Riêng lạm phát, riêng suy giảm tăng trưởng (đình trệ) cũng đã làm cho mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội khó thực hiện; nhưng nếu vừa lạm phát, vừa đình trệ thì đó là khó khăn kép, khó khăn gấp bội.

Theo Dương Ngọc
VnEconomy

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

“Rất khó có gói kích cầu như năm 2009”

Ngày đăng : 23/04/2012 - 1:43 PM

   

 

Tại một hội thảo về kinh tế quý 1 vừa diễn ra cuối tuần qua, trong vai trò diễn giả chính, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển và Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Võ Trí Thành đều đưa ra thông điệp, kinh tế quý 1/2012 của Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên, hai ông vẫn nhận định rằng, kinh tế trong nước còn nhiều rủi ro hiện hữu, mà lớn nhất là hệ thống ngân hàng (nợ xấu), tổng cầu trong nước giảm mạnh và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.

Trong bối cảnh này, có nên đặt ra khả năng về một kịch bản tương tự như năm 2009, là sự xuất hiện gói kích thích kinh tế của Chính phủ?

Trao đổi với VnEconomy, ông Trương Đình Tuyển nói: “Năm 2009 chúng ta có gói kích cầu, do thời điểm đó cực kỳ khó khăn. Còn năm nay có thể không có một gói như vậy”.

“Một gói kích cầu như năm 2009 vào lúc này sẽ làm méo mó thị trường, cũng như rất nguy hiểm cho lạm phát những năm sau. Nhưng chúng ta có thể có những biện pháp hỗ trợ thị trường”, ông Tuyển nói.

Cùng quan điểm này, ông Võ Trí Thành cho rằng năm nay “sẽ không có một gói kích thích kinh tế lớn, toàn diện, đầy đủ”.

Bốn lý do ngắn gọn được ông Thành đưa ra. Thứ nhất là Việt Nam đang thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Thứ hai, bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang rập rình dù kinh tế quý 1/2012 có một số chuyển biến tích cực. Thứ ba, Chính phủ không có đủ nguồn lực, cho dù được hỗ trợ mạnh mẽ từ dự trữ ngoại tệ gần 20 tỷ USD. Thứ tư, tình hình hiện nay khó khăn, nhưng khó khăn đó khác so với năm 2009.

“Nói như vậy không có nghĩa là không hỗ trợ cho doanh nghiệp. Có nhiều giải pháp hỗ trợ sẽ được tuyên bố. Hy vọng trong cuộc họp của Chính phủ vào tháng 5 tới sẽ có nhiều giải pháp”, ông Thành nói, đồng thời đề xuất 4 giải pháp chính.

Giải pháp thứ nhất là hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp. Đó là tiếp cận tín dụng với lãi suất được giảm và tạo những điều kiện về mặt pháp lý để doanh nghiệp “gặp mặt” với ngân hàng. Như vậy, điều kiện tiếp cận quan trọng hơn lãi suất, trong đó có câu chuyện như khoanh nợ, cơ cấu lại nợ, bảo lãnh tín dụng. Khoanh nợ và bảo lãnh tín dụng đang được đề bạt rất mạnh mẽ.

Thứ hai hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp là giảm chi phí, ví như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Thời điểm giảm thì chưa có, song  được biết hiện có hai phương án từ 25% xuống 20%, một quan điểm khác được cơ quan quản lý tài chính ủng hộ hơn là từ 25% xuống 23%.

Thứ ba là mở van tín dụng cho vay tiêu dùng, giảm thuế giá trị gia tăng, hỗ trợ các chương trình nông nghiệp nông thôn (tương tự như năm 2009) với số tiền có thể không lớn vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng.

Giải pháp cuối cùng mà theo ông Thành là rất quan trọng, là xúc tiến thương mại. Nhiều thị trường nước ngoài đang phục hồi, có nhu cầu với hàng của Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc... bên cạnh các thị trường truyền thống EU, và Hoa Kỳ.

QUÝ HIỂU


CPI Hà Nội tháng 4 giảm lần đầu tiên sau 24 tháng

Ngày đăng : 20/04/2012 - 3:08 PM

 

Chỉ số giá tháng này giảm là do một số mặt hàng trong nhóm lương thực, thực phẩm giảm mạnh.

Cục thống kê Hà Nội vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 năm 2012 trên địa bàn tỉnh.

Sau một thời gian dài tăng giá, CPI tháng 4 đã giảm 0,03% so tháng trước và tăng 9,52% so với cùng kỳ năm trước.

Tháng này có 8 nhóm hàng tăng so tháng trước nhưng mức tăng không đáng kể, có 3 nhóm hàng giảm là hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,65%); Nhóm hàng nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (-0,64%); Nhóm Bưu chính vĩnh thông (-0,04%).

Chỉ số giá tháng này giảm là do một số mặt hàng trong nhóm lương thực, thực phẩm giảm mạnh. Cụ thể:

- Lương thực: Khác với xu hướng mọi năm, trong tháng 4 giá gạo giảm mạnh đã làm nhóm lương thực giảm 1,98% so tháng trước. Nguyên nhân do các tỉnh ĐBSCL đã thu hoạch vụ thu đông với năng suất cao nên nguồn cung dồi dào.

- Thực phẩm: Giá thực phẩm giảm 0,79% so tháng trước, các mặt hàng thịt bò, cá, hải sản... giá ổn định và giảm nhẹ. Riêng thịt lợn giảm hơn các mặt hàng thực phẩm khác, nguyên nhân do thông tin thịt lợn bị nhiễm độc đã khiến người dân thận trọng với mặt hàng này.

- Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,64% so tháng trước, nguyên nhân chính là do từ 1/4/2012 giá gas giảm khoảng 6.000đ/kg, đây là mức giảm mạnh trong những năm gần đây, hiện giá gas trong nước được bán ra ở mức 395.000đ đến 420.000đ/bình thùy từng hãng.


Hải An

Theo TTVN/Cục Thống kê Hà Nội


Chính phủ: Dự trữ ngoại tệ Việt Nam đạt khoảng 9 tuần nhập khẩu

Ngày đăng : 20/04/2012 - 2:12 PM

 

Trước đó, báo cáo của ADB cũng cho thấy, Việt Nam có gần 17 tỷ USD dự trữ ngoại hối, tương đương khoảng 2 tháng nhập khẩu.

 

 

Chính phủ vừa có báo cáo gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2011 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012.

 

Báo cáo cho hay, cán cân thanh toán quốc tế trong quý I/2012 có diễn biến tích cực. Cán cân vãng lai thặng dư ước gần 2 tỷ USD, cán cân vốn và tài chính cũng thặng dư,… dẫn đến cán cân thanh toán tổng thể quý I/2012 ước thặng dư 2 tỷ USD (cùng kỳ thâm hụt 126 triệu USD).

 

Cũng theo báo cáo, dự trữ ngoại tệ của Nhà nước được cải thiện rõ rệt, ở mức khoảng 9 tuần nhập khẩu.

 

Tổng kim ngạch xuất khẩu những tháng đầu năm 2012 tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, ước quý I/2012 đạt trên 24,8 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước

 

Tổng kim ngạch nhập khẩu quý I/2012 ước khoảng 24,58 tỷ USD, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

 

Như vậy, xuất siêu quý I /2012 là 220 triệu USD, bằng 0,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, là kết quả tốt nhất so với cùng kỳ nhiều năm gần đây  (cùng kỳ năm 2011, nhập siêu 3 tỷ USD).

 

Tuy nhiên, báo cáo nêu rõ, xuất siêu ngoài nguyên nhân do xuất khẩu tăng cao, tốc độ tăng nhập khẩu giảm còn có nguyên nhân quan trọng là do đầu tư và sản xuất công nghiệp chế biến suy giảm dẫn đến nhu cầu nhập khẩu nguyên, vật liệu và máy móc, thiết bị giảm sút.

Duy Cường

 NDHMoney

 


Tìm động lực tăng trưởng kinh tế

Ngày đăng : 19/04/2012 - 3:46 PM

 

 Hôm nay 19-4, Đề án Tái cơ cấu nền kinh tế được trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội lấy ý kiến. Đề án sẽ trình bày những thành tựu và yếu kém chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua. 

 

Vậy đâu là giải pháp để đưa thành tựu này tiến nhanh và sớm khắc phục yếu kém?

 

Đâu là dòng vốn tạo ra tăng trưởng?

 

Yếu kém đầu tiên được chỉ ra trong đề án là “tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục thiên về chiều rộng, dựa chủ yếu vào sự gia tăng số lượng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên…”. Nghĩa là, tái cấu trúc nền kinh tế sẽ đưa ra những giải pháp để khắc phục điểm yếu này.

 

Thực ra dòng vốn đầu tư đến từ chi tiêu công, đầu tư khu vực tư nhân (dựa vào vốn tín dụng ngân hàng là chủ yếu), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là những nguồn vốn chủ yếu tạo ra sự tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng thời gian qua. Việc đầu tư công đã đưa tỷ lệ nợ quốc gia đang gia tăng và chạm đến ngưỡng nợ mà chuẩn mực quốc tế đã đề cập.

 

Chính vì vậy, giải pháp cho chính sách tài khóa thời gian tới sẽ giảm bội chi ngân sách về mức 3-3,5% theo đề án; quản lý nợ công phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế trong 5-10 năm tới của nền kinh tế Việt Nam không còn dựa vào nguồn vốn ngân sách đầu tư.

 

Về dòng vốn đầu tư tư nhân, thời gian qua dòng vốn này liên tục gia tăng và đẩy dòng vốn tín dụng cũng tăng trưởng khá mạnh. Trung bình tín dụng ngân hàng tăng trưởng trên 30%/ năm. Chính sách mở rộng cung tiền trong nền kinh tế đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

 

Nói cách khác, chính sách tiền tệ thời gian qua lấy tăng trưởng kinh tế là mục tiêu. Định hướng chính sách tiền tệ trong đề án nhằm chuyển dịch sang mục tiêu kiềm chế lạm phát, thực hiện theo lạm phát mục tiêu trong khoảng 4-6% trong trung và dài hạn. Ở đây có 2 vấn đề cần quan tâm:

 

Thứ nhất, chuyển dịch mục tiêu điều hành của chính sách tiền tệ sang kiềm chế lạm phát sẽ phù hợp với xu hướng, tạo sự ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này đồng nghĩa cung tiền sẽ giảm mạnh trong giai đoạn tới. Việc tiếp cận vốn vay của các doanh nghiệp trong nền kinh tế sẽ không còn thuận lợi như trước đây.

 

Để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ cần có một lượng dự trữ đủ mạnh, trong khi đó mức dự trữ này chỉ bằng 2/3 mức an toàn của tiêu chuẩn thế giới (12 tuần nhập khẩu). Muốn đủ mạnh, mức dự trữ ngoại tệ này cần gia tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu để chuyển dịch sang hướng xuất siêu trong giai đoạn tái cấu trúc thay vì nhập siêu cao trong thời gian qua.

 

Như vậy, dòng vốn tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp cần gia tăng và được động viên vào đầu tư sản xuất để thay thế dòng vốn tín dụng ngân hàng. Nhưng làm sao động viên dòng vốn này thì đề án chưa có giải pháp để có dòng tiền đầu tư thay thế.

 

Thứ hai, nếu lạm phát mục tiêu là 4-6%, lãi suất trong nền kinh tế chỉ vào khoảng 5-7%. Ở góc độ nền kinh tế ai cũng mong chờ mức lãi suất này để gia tăng đầu tư chi tiêu. Tuy nhiên, điều đáng nói là trong những nền kinh tế mà đồng tiền không được chuyển đổi thì còn tồn tại các loại ngoại tệ mạnh.

 

Nhu cầu nắm giữ ngoại tệ mạnh không chỉ đến từ khu vực dân cư mà thậm chí trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước ngoài. Như vậy, với mức lãi suất VNĐ như trên lãi suất của ngoại tệ mạnh (như USD) sẽ là bao nhiêu? Giả sử lấy mức 2% hiện nay thì chênh lệch lãi suất VNĐ và USD chỉ ở mức 3%.

 

Nếu tính mức điều chỉnh tỷ giá những năm vừa qua trung bình là 5%, nắm giữ USD sẽ có lợi cho cả doanh nghiệp và người dân thay vì VNĐ. Nếu giữ được biến động tỷ giá dưới 1% và lãi suất tiền USD của nền kinh tế thế giới trong 5-10 năm tới không tăng như hiện nay, dự trữ ngoại tệ của nền kinh tế hiện nay (khoảng 17 tỷ USD) không đủ đáp ứng. Vậy làm sao để thực hiện được mục tiêu của giải pháp này mà đề án đề cập.

 

Mâu thuẫn cơ cấu ngành, sản phẩm

 

Một trong những vấn đề lớn của tăng trưởng kinh tế là sự đóng góp của các ngành, sản phẩm. Đề án đã chỉ ra tỷ trọng các ngành trong GDP đã có sự chuyển dịch: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20%, công nghiệp và xây dựng chiếm 41% và dịch vụ chiếm 39%. Ở đây, chúng tôi nhận thấy có sự mâu thuẫn trong sự định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

 

Ngành nông, lâm, ngư nghiệp được xem là lợi thế kinh tế của Việt Nam và đã mang lại nguồn ngoại tệ cho nền kinh tế thời gian qua như đề án đã ghi nhận. Định hướng tái cơ cấu kinh tế cũng xác định đây là ngành có lợi thế cạnh tranh cần tiếp tục duy trì. Tuy nhiên lại không đề cập các giải pháp giúp cho ngành, sản phẩm này phát triển mạnh hơn.

 

Việc lựa chọn các ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển để xây dựng năng lực cạnh tranh lại được xác định từ các ngành: Luyện kim, hóa dầu, đóng tàu và các phương tiện vận tải khác, điện tử…

 

Đề án đã chỉ ra ngành công nghiệp phần lớn còn ở dạng gia công, lắp ráp và chủ yếu dựa vào nhập khẩu và sản phẩm trung gian bên ngoài. Nếu tiếp tục chọn ngành này ưu tiên thì không phải thực hiện xây dựng cho giai đoạn 2016-2020 mà cần thực hiện ngay từ bây giờ. Điều này mới thật sự cần tái cấu trúc.

 

 

Thực trạng thu hút FDI vào Việt Nam thời gian qua chủ yếu vào lĩnh vực thâm dụng lao động, bất động sản và tài nguyên. Việc tái cấu trúc nền kinh tế sẽ khắc phục điểm yếu này, nghĩa là dòng vốn FDI sẽ không còn khuyến khích trong lĩnh vực trên. Định hướng này là đúng, nhưng làm sao thu hút dòng vốn nước ngoài chuyển dịch sang ngành nghề khác? Những ngành, sản phẩm trong định hướng phát triển sản xuất của đề án lại không phải là ngành, sản phẩm mà dòng vốn FDI tham gia đầu tư thời gian qua. Đề án cũng không cho các nhà đầu tư nước ngoài thấy được triển vọng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới nên sẽ khó thu hút dòng vốn này trong những ngành, sản phẩm ưu tiên.

Như vậy liệu những ngành mà đề án ưu tiên phát triển có giúp Việt Nam tăng năng lực cạnh tranh không? Đề án đã xác định những ngành, sản phẩm này không phải lợi thế cạnh tranh quốc gia, là ngành tiêu tốn nhiều nguồn lực của quốc gia và gia tăng nhập khẩu cao trong khi sản phẩm tạo ra không giúp cho quá trình xuất khẩu.

 

 

Như vậy tiếp tục thực hiện chiến lược ngành, sản phẩm này sẽ gây ra áp lực ngoại tệ cho nền kinh tế khá lớn. Như chúng tôi đã phân tích trên, chiến lược ngành này đã đẩy chính sách tiền tệ vào thế khó, tỷ giá thường xuyên biến động tăng.

 

Điều này nói lên chính sách tiền tệ không thể thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát khi tỷ giá bất ổn, lãi suất VNĐ sẽ tăng cao, khu vực kinh tế tư nhân khó có thể thực hiện đầu tư dài hạn vào các ngành công nghiệp này. Thực trạng chính sách lãi suất cao thời gian qua đã tạo ra một rào cản lớn trong đầu tư dài hạn và nhất là đầu tư công nghiệp.

 

Cơ cấu vốn vay trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay rất thấp và tỷ trọng cho vay ngành, sản phẩm công nghiệp càng nhỏ. Đó là một minh chứng cho việc đầu tư vào ngành công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế, chỉ có đầu tư của dòng vốn nhà nước vào ngành, sản phẩm này là chủ yếu. Như vậy làm sao để huy động được khu vực tư nhân vào ngành, sản phẩm này thì đề án cũng không đề cập các giải pháp.

 

Tìm hướng ra cho tái cấu trúc

 

Nhìn từ thực trạng nền kinh tế, chiến lược phát triển ngành, sản phẩm phải phục vụ gia tăng tiềm lực tài chính cho nền kinh tế để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, tăng sức mạnh cho các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, động viên nguồn lực trong đầu tư phát triển.

 

Trên cơ sở đó, tại sao chúng ta không đặt vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chọn lựa các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh từ gia tăng xuất khẩu và lựa chọn các ngành sản phẩm ưu tiên. Đó là những ngành, sản phẩm mà đầu ra của nó phải hướng đến xuất khẩu chứ không phải tiêu dùng nội địa.

 

Nghĩa là, dù ngành, sản phẩm đó có hàm lượng hàng nhập khẩu lớn nhưng có giá trị xuất khẩu cao. Việc nhập khẩu chỉ là một công đoạn trong quy trình hoàn thiện sản phẩm để xuất khẩu. Qua đó, Việt Nam có thể tìm thấy sự gia tăng giá trị trong sản phẩm gia công và thu về ngoại tệ cho đất nước.

 

Thực hiện chiến lược này giúp cho việc cân đối xuất nhập khẩu và tiến tới sự thặng dư ngoại tệ. Sự thặng dư ngoại tệ giúp Việt Nam ổn định trong chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Qua đó chính sách tiền tệ mới có thể thực hiện theo mục tiêu kiềm chế lạm phát mục tiêu 4-6%.

 

Việc kiềm chế được lạm phát mục tiêu sẽ giúp kích thích đầu tư, tiêu dùng. Ở đây, Chính phủ định hướng khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực trọng yếu sẽ giúp khu vực tư nhân tham gia để thay thế dòng tiền đầu tư từ khu vực nhà nước.

 

Về tiêu dùng, chính sách hạn chế dùng hàng ngoại, khuyến khích dùng hàng nội bằng nhiều chính sách thuế khóa… Khi thực hiện được chính sách tiền tệ mục tiêu cần sự phối kết hợp với chính sách tài khóa, chính sách lãi suất của trái phiếu chính phủ, tránh sự mâu thuẫn với nền kinh tế và chính sách tiền tệ.

 

Thiết nghĩ, một định hướng phát triển ngành, sản phẩm nên hướng đến gia tăng xuất khẩu trên cơ sở lợi thế cạnh tranh Việt Nam, đừng để chiến lược phát triển ngành, sản phẩm tách rời chính sách tài chính, tiền tệ để rồi an ninh tài chính bị phá vỡ trong nguy cơ của hội nhập.

 

TS. Lê Đạt Chí, Đại học Kinh tế TPHCM

 SGĐT

 

 


Việt Nam – Cơ hội kiếm tiền đến từ những yếu tố khác biệt

Ngày đăng : 18/04/2012 - 1:36 PM

 

Dòng tiền đầu tư toàn cầu đang dịch chuyển, hướng đến châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông.

Suốt hơn 1 thập kỷ qua, nhà đầu tư đã quan tâm đến Trung Quốc và cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Trung Quốc. Chắc hẳn khi bạn biết rõ mình đang quan tâm đến cái gì bạn sẽ nắm rõ về nó. Thế nhưng cơ hội sẽ còn lớn hơn nếu bạn biết tìm đến nơi mà không nhiều người chú ý, ngoại trừ người Trung Quốc. Trung Quốc đối đầu với một cuộc khủng hoảng lao động. Đó không phải cái bạn nghĩ. 

Trung Quốc có nguồn nhân công rất dồi dào. Một số có kỹ năng tốt, số khác được giáo dục tốt. Thế nhưng người làm trong các nhà máy thực ra chẳng có cái gì để sở hữu ngoài kỹ năng làm việc họ đang có. Mức lương của họ thấp đến nỗi họ sẽ không bao giờ có tiền để mua chính những chiếc ví họ đang may hay xe đạp họ lắp ráp. Mọi chuyện đang dần thay đổi và các nhà máy tại Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn. Rõ ràng, Trung Quốc không có nhiều nhà máy có lợi nhuận biên cao. 

Trung Quốc thành công bởi đã tự biến mình thành nhà sản xuất hàng hóa chi phí thấp nhất trên thế giới, bán hàng ở mức lợi nhuận biên cực thấp để cạnh tranh. Nhờ vậy, Trung Quốc trở thành cường quốc về sản xuất nhưng lại phải chịu hậu quả không mong muốn: lạm phát. 

Trung Quốc nằm trong nhóm ít nước mới nổi không đưa ra nhiều chương trình trợ cấp. Ví dụ như giá xăng, giá một gallong xăng tại Trung Quốc hiện tính ra đến hơn 5USD, mức giá này cao hơn Mỹ và thậm chí hơn hẳn so với Ấn Độ, nước đang áp dụng chính sách trợ cấp nhiên liệu. 

Tại Trung Quốc, giá cả mọi mặt hàng đang tăng cao vì vậy người lao động đòi mức lương cao hơn, mọi chuyện cũng không quá khó hiểu. 

Người lao động nhận lương cao hơn, lợi nhuận của nhóm chủ các nhà máy vốn đã gặp quá nhiều khó khăn với tình trạng suy giảm kinh tế khiến người tiêu dùng tại nhiều thị trường xuất khẩu không muốn chi tiêu. 

Việt Nam – Cơ hội đằng sau những điều bất ngờ 

Từ năm 1991 đến 1999, tổng giá trị các khoản đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam chỉ khoảng 120 triệu USD. 

Đến năm 2010, con số đã lên mức 3 tỷ USD. Và nếu tính cả tổng tiền đầu tư vào Việt Nam qua đường Hồng Kông, con số này tăng hơn 4 lần lên đến 15 tỷ USD. Lượng tiền mặt tăng cao thời kỳ đầu những năm 2000 đã khiến cổ phiếu trên thị trường Việt Nam tăng điểm nhảy vọt. 

Thế nhưng giống như nhiều thị trường mới nổi khác, khi bong bóng vỡ, thị trường Việt Nam đã mất đến 70% giá trị và lập mức đáy vào đầu năm 2011. "Tôi đã từng đến Việt Nam vào năm 2011, thực hiện rất nhiều nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Và tôi đã rất ngạc nhiên. Việt Nam mang đến cơ hội không thể bỏ qua"-ông Karim Rahemtulla, tác giả bài báo (*) nhận định. 

Trên thực tế, giữa những gì đang diễn ra và cái được phản ánh vào giá cổ phiếu, mối liên hệ không thực sự rõ ràng. 

Ngoài ra, Trung Quốc chẳng có lựa chọn nào ngoài việc mở rộng sản xuất sử dụng người lao động lương thấp tại Việt Nam. Nếu tính cả hai yếu tố trên, Việt Nam mang đến cơ hội mà nhiều thị trường mới nổi khác không có được. 

Việt Nam là một đất nước năng động. Phần đông dân số dưới tuổi 45. Họ quan tâm rất nhiều đến học vấn và làm việc chăm chỉ. Họ đã quá quen với việc ban ngày làm việc cả ngày và đi học thêm buổi tối. Người Việt Nam luôn muốn trở nên giỏi hơn. 

Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ hồi phục. Và từ chuyến đi đến Việt Nam của tôi đến nay, thị trường đã có mức tăng điểm tốt hơn phần lớn thị trường trên thế giới, hơn 20%. Và thị trường sẽ còn tiếp tục lên điểm. 

Có nhiều thị trường mà cách đây 20 năm tôi cũng không đầu tư, nay cũng vậy. Một số thị trường khác sẽ mãi mãi chỉ là mới nổi. Thế nhưng dòng tiền đang dịch chuyển, tiền mặt hướng đến châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Tại đất nước mà tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp 5 lần so với Mỹ hay châu Âu, tăng trưởng ở mức đó sẽ chuyển thành lợi nhuận cao nếu bạn tìm ra được hướng đầu tư đúng. 

Tác giả bài viết là ông Karim Rahemtulla, nhà báo thuộc MoneyMorning – Mỹ.

Đình Hảo

 

Theo TTVN/MoneyMorning

 


 

Tin mới cập nhật