Phiền toái từ thẻ ATM: Rủi ro rình rập người rút tiền

Ngày đăng : 14/12/2011 - 8:50 AM

Không chỉ dài cổ ngóng lương, “giam” lương, chủ thẻ còn phải đối phó với hàng loạt rủi ro như bị trấn lột, mất xe, mà mới nhất là nạn đánh cắp dữ liệu thẻ.

Theo ghi nhận của Tuổi Trẻ tại các “điểm đen” ATM, những nơi từng xảy ra tình trạng cướp trấn lột người rút tiền cho thấy việc đảm bảo an ninh cho người rút tiền vẫn chưa được cải thiện.


Rút tiền lo cướp
 
Tối 9-12, trở lại điểm rút tiền qua máy ATM nằm ở khu vực vòng xoay Điện Biên Phủ - Nguyễn Bỉnh Khiêm (TP.HCM) - nơi từng xảy một vụ cướp cách đây không lâu, nhiều người rút tiền vẫn có cảm giác sợ do nơi đây khá vắng, máy đặt bên lề đường, người rút tiền phải để xe máy trên vỉa hè hoặc dưới lòng đường.


Anh Nguyễn Nam Quốc cho biết thường rút tiền tại đây do gần nhà. Từ khi xảy ra vụ cướp anh phải đi hai người, một người đứng trông xe, một người vào rút tiền. Rút được là ra xe đi luôn chứ loay hoay mở khóa xe, nổ máy sợ cướp” - anh Quốc nói.


Theo anh Quốc, nếu đi một người, đứng quay lưng ra đường sẽ không quan sát được xe, đặc biệt trong trường hợp rút tiền vào buổi tối, đường vắng, khả năng bị “nhốt” trong buồng ATM để trộm xe rất cao.
 
Chị Thanh Loan, người rút tiền tại điểm ATM trên đường Trần Quốc Thảo, Q.3, cho biết nhiều hôm khoảng 10g-11g đêm, cần tiền gấp nhưng không dám rút vì máy ATM đặt bên lề đường. Hơn nữa, đây là khu vực công sở nên ban đêm rất vắng. Vị trí của trụ ATM này cũng khá tối do đường nhiều cây nên che mất ánh đèn.

“Đi rút tiền vào buổi tối chỉ dám rút 300.000-500.000 đồng. Rút nhiều sợ bị cướp” - chị Loan nói.

Ghi nhận tại các trụ ATM đặt tại các khu chế xuất, khu công nghiệp cho thấy chỉ một số điểm an toàn cho người rút tiền vì được đặt trong khuôn viên ngân hàng (NH), có bảo vệ. Số khác được đặt ở những vị trí vắng vẻ, khu vực phức tạp. Chị L.T.T.H., công nhân Công ty Hansoll Vina, cho biết cách đây một năm chị đã bị cướp xe máy ngay giữa ban ngày. Do khu vực này khá vắng nên tri hô cũng không ai nghe thấy.

Theo phản ảnh của nhiều công nhân, vào giờ tan tầm lượng người rút tiền rất đông nên thường chen chúc nhau. Một người đứng rút tiền trong buồng máy thì có 5-6 người khác vây xung quanh nên rất khó quan sát. Kẻ gian có thể lợi dụng lúc lộn xộn này để lấy trộm xe.

Thẻ tự nhiên bị khóa

Nhiều độc giả phản ảnh giữa tháng 11 đột nhiên được NH thông báo thẻ tạm thời bị khóa vì nghi ngờ dữ liệu đã bị đánh cắp khi rút tiền tại máy ATM. Sau khi khóa, NH sẽ làm lại thẻ mới cho khách hàng để bảo mật. Tình trạng NH buộc phải khóa thẻ khẩn cấp như trên không chỉ diễn ra tại một NH do hiện nay hệ thống ATM của các NH đã kết nối liên thông, do vậy chỉ cần một máy ATM có gắn thiết bị đánh cắp dữ liệu, hàng loạt chủ thẻ của nhiều NH khác nhau có nguy cơ bị trộm tiền.

Ngày 5-12 cơ quan chức năng đã bắt được một người nước ngoài lắp thiết bị ghi lén dữ liệu thẻ vào máy ATM của NH Công thương tại số 1 Lý Thường Kiệt, P.7, Q.Tân Bình, TP.HCM khi các đối tượng này quay trở lại để lấy dữ liệu.

Trước đó, qua theo dõi camera, bộ phận thẻ NH Vietinbank TP.HCM phát hiện có hai khách hàng vào buồng ATM trên với nhiều biểu hiện khả nghi. Một người giả vờ thực hiện thao tác rút tiền, người còn lại lấy trong túi ra một thiết bị hình chữ nhật gắn chồng lên khe đọc thẻ của ATM. Một camera được ngụy trang dưới dạng thanh kim loại đục các lỗ tròn nhỏ lắp ở cạnh nhô ra phía trên màn hình để chiếu thẳng xuống bàn phím, ghi lại mật mã thẻ.

Nhìn bằng mắt thường, thiết bị này giống như một khe đọc thẻ thông thường của máy ATM, chủ thẻ vẫn có thể đưa thẻ vào máy và thao tác nhưng giao dịch thường không thành công. Khi thẻ đi qua thiết bị này, dữ liệu thẻ sẽ bị thiết bị này sao chép lại và họ sẽ sử dụng các dữ liệu này để chế tạo các thẻ giả, sau đó dùng mật mã ghi lén được để rút trộm tiền.

Theo trưởng phòng dịch vụ thẻ một NH lớn, kẻ gian thường cài thiết bị trên ở những máy ATM dạng xuyên tường - là dạng máy các NH lắp ở những nơi công cộng- do ở những máy này cạnh kim loại phía trên màn hình nhô ra nên rất dễ gắn camera ghi lén mật khẩu.

Ngoài ra, bọn tội phạm cũng nhắm vào những máy ATM ở trung tâm thành phố do có đông khách hàng giao dịch, thời gian hoạt động mạnh nhất của bọn tội phạm là từ 17 - 20 giờ vì thời điểm này NH đã nghỉ giao dịch và lượng khách rút tiền khá đông. Sau khi lắp thiết bị, kẻ gian sẽ đứng gần đó để quan sát. Khi thấy đủ “sở hụi”, chúng sẽ quay lại máy ATM để tháo thiết bị cài đặt, đồng thời sử dụng những thông tin đánh cắp được để tạo ra một thẻ ATM giả và rút trộm tiền.

Tăng cường cảnh giác

Trước tình trạng này, nhiều NH đã tăng cường nhiều biện pháp phòng tránh, đồng thời dán thông báo lưu ý đến khách hàng. Theo giám đốc một trung tâm thẻ, khi giao dịch tại các máy ATM, khách hàng cần quan sát kỹ cột máy ATM có gì khác thường so với trước đây hay không, đặc biệt là ở khe đọc thẻ và phía trước bàn phím. Trường hợp thấy những bất thường cần ngưng giao dịch và báo ngay về trung tâm thẻ để khóa thẻ.

Với các máy ATM không có bộ phận che bàn phím thì khi nhập mật khẩu, chủ thẻ nên lấy tay hoặc dùng giấy che bàn phím nhằm tránh tình trạng bị lấy cắp mật khẩu. Vì dù lấy được thông tin thẻ nhưng không lấy được mật khẩu cũng không thể ăn cắp tiền trong tài khoản. Chủ thẻ cũng nên sử dụng dịch vụ thông báo thay đổi số dư.

NH Công thương triển khai ứng dụng tạo rung trong quá trình nạp và trả thẻ tại đầu đọc thẻ ATM, đồng thời dán thông báo tại tất cả máy ATM để khách hàng lưu ý. Nếu đưa thẻ vào mà máy không rung, khách hàng nên kiểm tra lại xem có thiết bị lạ gắn vào máy ATM hay không và thông báo nhanh đến NH. NH ACB còn lắp thiết bị phòng chống đột nhập từ bên ngoài tại các phòng máy ATM, khách hàng phải quẹt thẻ để mở cửa khi bước vào buồng ATM và cửa sẽ đóng lại khi khách hàng đang giao dịch...


Theo Ánh Hồng - Bạch Hoàn
Tuổi trẻ
 
 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Thế giới đang phải trả một "cái giá quá đắt" vì thảm họa thiên nhiên

Ngày đăng : 13/12/2011 - 3:21 PM

Hệ thống cung ứng sản phẩm như đã có bao lâu nay khiến người ta nhầm tưởng nó hoạt động rất tốt. Chỉ một thảm họa xảy ra, tất cả như trở về con số không.

Các công ty sản xuất đã mất nhiều năm để xây dựng chuỗi cung ứng sản phẩm giá rẻ cho thế giới. Thảm họa thiên thiên cho thấy các hệ thống cung ứng này mong manh đến mức độ nào.

Bức hình bên phải được chụp tại nhà máy của Honda ở Thái Lan: Nhà máy sản xuất ô tô của Honda tại Thái Lan, một trong những nhà máy lớn nhất khu vực Đông Nam Á, bị chìm trong nước. Trận lụt tồi tệ tại Thái Lan vào tháng 11/2011 đã cướp đi sinh mạng của khoảng hơn 600 người, làm ngưng trệ hoạt động cung ứng quan trọng của Honda.

Chỉ riêng trận lụt tại Thái Lan vừa qua đã trở thành phép thử quan trọng cho khả năng hoạt động của bất kỳ một công ty nào. Hiện nay, tại Nhật phần lớn công ty thuộc ngành ô tô và công nghệ vẫn đang cố gắng khôi phục hoạt động từ sau động đất, sóng thần. Khi đó hàng loạt công ty sản xuất theo hợp đồng chuyên cung cấp sản phẩm kính, linh kiện đã phải ngừng hoạt động.

Thảm họa kép tại châu Á đã gây tác động đến hàng loạt công ty cung cấp linh kiện, phụ tùng cho MacBook hay Prius.

Chuỗi cung ứng sản phẩm ban đầu đã được sáng lập bởi Toyota. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuỗi cung ứng sản phẩm đã chia nhỏ hoạt động sản xuất đến mức tối đa: các công ty sản xuất lớn phát triển hệ thống công ty sản xuất chuyên biệt đa quốc gia để cung cấp linh kiện và đảm bảo mọi linh kiện phải đến đúng lúc cần thiết. Khi mọi chuyện diễn ra đúng theo kế hoạch, hệ thống có lợi cho tất cả các bên tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm. Công ty cung cấp sản phẩm, linh kiện giữ cho chi phí ở mức thấp bằng cách đặt địa điểm sản xuất tại những nơi có chi phí nhân công giá rẻ và người tiêu dùng cũng hài lòng khi giá họ phải chi ra chỉ ở mức thấp.

Thảm họa thiên nhiên như động đất và sóng thần đã bộc lộ ra một thực tế: các chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay dù đã được tính toán kỹ nhưng thực sự rất mong manh. Ông Bob Ferrari, chuyên gia tư vấn hàng đầu về chuỗi cung ứng, chỉ ra: “Bạn sẽ chẳng bao giờ muốn nghe tin từ người điều hành chuỗi cung ứng sản phẩm cho các công ty đa quốc gia. Và khi bạn phải nghe, thường đó là tin xấu.”


Các công ty bảo hiểm và nhiều công ty vẫn đang tính toán chi phí trực tiếp của thảm họa. Ví như công ty bảo hiểm Munich Re, công ty bảo hiểm lớn, tính chi phí động đất, sóng thần ở Nhật trong 9 tháng đầu năm 2011 đã mất tới 210 tỷ USD. Ngành bảo hiểm Thái Lan trong khi đó ước tính thiệt hại khoảng 30 tỷ USD.

Các chuyên gia chỉ ra Nissan đã hồi phục được sản xuất nhanh hơn các hãng xe Nhật còn lại bởi hãng đẩy mạnh được sản xuất tại nhiều nhà máy khác. Công ty bảo hiểm FM Global đã tiến hành khảo sát hơn 600 giám đốc tài chính vào đầu năm 2011 và hỏi điều gì khiến họ lo sợ rằng sẽ cản trở hoạt động kinh doanh, câu trả lời phổ biến nhất: gián đoạn chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Khảo sát đó được tiến hành trước động đất, sóng thần tại Nhật.

Ông Carlos Ghosn, CEO của Nissan, dự báo: “Sẽ còn một cuộc khủng hoảng khác. Chúng tôi không biết cuộc khủng hoảng đó là gì, khi nào và ở đâu sẽ tác động đến chúng tôi. Thế nhưng mỗi khi có khủng hoảng, chúng tôi sẽ học được từ nó.” Nếu ông nói đúng và mô hình khủng hoảng trở thành điều bình thường, lợi thế chi phí thực sự sẽ không dành cho công ty sản xuất có chuỗi cung ứng nhanh nhất mà nó sẽ đến với công ty có chuỗi cung ứng mạnh nhất.


Theo Ngọc Diệp

TTVN
 


Ngân hàng phải báo cáo hoạt động hàng ngày trong thời gian vay tái cấp vốn

Ngày đăng : 13/12/2011 - 11:48 AM

Vụ chính sách tiền tệ xác định mức cung ứng tiền cho mục tiêu tái cấp vốn, thẩm định hồ sơ vay vốn của TCTD và trình Thống đốc phê duyệt.

                         

 

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ký ban hành thông tư số 3/2011/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư 17/2011/TT-NHNN quy định về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của NHNN với các TCTD
 
Thông tư này sửa đổi , bổ sung Điều 11, Điều 20 và Điều 21 của Thông tư số 17. Cụ thể:
 
Trong thời gian vay tái cấp vốn tại NHNN, định kỳ hằng ngày, TCTD phải báo cáo hoạt động của tổ chức tín dụng, nguồn vốn và sử dụng vốn cho NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nơi TCTD đặt trụ sở chính.
 
Sửa đổi bổ sung một số nội dung quy định về chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị thuộc NHNN. Theo đó Vụ chính sách tiền tệ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xác định mức cung ứng tiền cho mục tiêu tái cấp vốn, tiếp nhận, thẩm định hồ sơ đề nghị vay vốn của TCTD và trình Thống đốc phê duyệt.
 
Thông tư quy định cụ thể cách thức, thời gian, biểu mẫu TCTD phải báo cáo NHNN trong thời gian vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.

 

Theo CafeF
 


LienVietPostBank được chỉ định làm ngân hàng phục vụ dự án của WB

Ngày đăng : 13/12/2011 - 11:27 AM

Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt làm ngân hàng phục vụ cho Khoản tín dụng tài trợ cho Dự án “Quỹ Đầu tư Phát triển Địa phương” trị giá tương đương 190 triệu USD của WB dành cho Việt Nam.

Ngày 12/12/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Quyết định số 2623/QĐ-NHNN về việc chỉ định ngân hàng phục vụ cho Khoản tín dụng tài trợ cho Dự án “Quỹ Đầu tư Phát triển Địa phương”do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ.

Theo Quyết định này, Thống đốc NHNN chỉ định Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt làm ngân hàng phục vụ cho Khoản tín dụng tài trợ cho Dự án “Quỹ Đầu tư Phát triển Địa phương” trị giá tương đương 190 triệu USD theo Hiệp định Tài trợ (Khoản tín dụng số 4609-VN) ký ngày 12/8/2009 giữa đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đại diện WB.

Thống đốc NHNN giao Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt chịu trách nhiệm thực hiện các quy định nêu trong Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và Sử dụng nguồn vốn Hỗ trợ Phát triển Chính thức; các văn bản hướng dẫn thực hiện của NHNN, Bộ Tài chính và các quy định, hướng dẫn của WB để phục vụ tốt việc thực hiện Dự án này.

Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế cho Quyết định số 2231/QĐ-NHNN ngày 24/9/2009 của Thống đốc NHNN.



Theo TTVN/SBV
 


Tái cơ cấu ngân hàng: Nhìn từ những chuẩn mực kế toán

Ngày đăng : 13/12/2011 - 1:06 AM

Tuân thủ chuẩn mực kế toán là yêu cầu bắt buộc với doanh nghiệp, đặc biệt là ngân hàng. Tuy nhiên không phải lúc nào những chuẩn mực này cũng được thực thi, hơn nữa đó là chuẩn mực chưa đầy đủ.

Lâu nay câu chuyện doanh nghiệp hạch toán giấu lỗ/lãi dường như khá quen thuộc. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp đó là ngân hàng thì rất đáng lo ngại. Bởi các ngân hàng kinh doanh dựa trên uy tín, bất kỳ gian dối nào của ngân hàng cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro, gây hậu quả nghiêm trọng khi sự thật phơi bày

Từ những lỗ hổng trong hạch toán

Nhiều ý kiến chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng các quy định kế toán có nhiều lỗ hổng để các ngân hàng “tận dụng”. Câu chuyện đưa nợ xấu từ ngân hàng mẹ xuống các công ty con và sử dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm che giấu nợ xấu không còn quá xa lạ.

Ví dụ, một ngân hàng X cho doanh nghiệp Y vay 10 tỷ đồng với kỳ hạn 1 năm. Tuy nhiên do kinh doanh khó khăn, đến thời hạn doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ vay. Quá hạn 6 tháng dư nợ của doanh nghiệp được xếp vào nợ xấu. Để giảm tỷ lệ nợ xấu của công ty Y, ngân hàng thông qua công ty con cho công ty X vay 10 tỷ cùng với tiền lãi bằng hợp đồng vay dân sự.


Công ty Y thanh toán cho ngân hàng đầy đủ cả vốn và lãi vay, như vậy ngân hàng giảm được nợ xấu trên bảng cân đối kế toán. Khi thực hiện hợp nhất khoản vay giữa công ty Y với ngân hàng được chuyển thành khoản vay chưa đến hạn phải thu tại công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, với bộ hồ sơ vay mới của doanh nghiệp, khoản vay còn có thể được xác định là Việc hạch toán hợp nhất đã giúp “che giấu” đi nợ xấu trong bảng cân đối của ngân hàng.

Không chỉ có vậy với cách làm tương tự những khoản chi phí không thể hạch toán cũng được các ngân hàng chuyển sang cho công ty con như phí thẩm định tài sản, phí quản lý tài sản đảm bảo… Đây là những loại phí ngân hàng thu của khách hàng vay vốn nhưng không có trong hợp đồng tín dụng, hoặc là % thêm được chi trả cho khách gửi tiền.

Theo T.S Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch UBGSTC Quốc gia, đánh giá hiện chỉ có khoảng 1/3 báo cáo tài chính của các ngân hàng là tương đối tin cậy, còn lại đều đáng nghi ngờ.

Ông Peter Charleton, chuyên gia cao cấp của Ngân hàng Ireland, chia sẻ thực tế tại Ireland khi xảy ra khủng hoảng nợ tại các ngân hàng: “ Chúng tôi đã đánh giá thấp quy mô của các khoản nợ xấu ẩn trong hệ thống NH. Dự kiến ban đầu, các khoản chiết khấu tài sản thế chấp của các NH sẽ vào khoảng 25 - 30% tổng các khoản nợ của NAMA (cơ quan nhận khoản vay tài sản/vay phát triển lớn), nhưng thực tế con số đó khoảng 60%”.

Trong giai đoạn 2008-2010, GDP Ireland giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 4% lên tới 14%, tổn thất trong hệ thống ngân hàng lên đến 70 tỷ euro, chiếm hơn 50% GDP.

“Chỉ có ngân hàng mới thực sự biết nợ xấu của họ mà thôi” – ông Charleton kết luận.

Đến khác biệt giữa VAS và FRS

Bên cạnh vấn đề nợ xấu thì xác định chất lượng tài sản của ngân hàng cũng là vấn đề đáng quan tâm, tuy nhiên với những thiếu sót của chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) khiến cho việc xác định trở nên thiếu hợp lý.

Ví dụ đối với giảm giá trị của tài sản, với chuẩn mực kế toán quốc tế số 36 (FRS 36) tài sản được điều chỉnh về giá trị có thể thu hồi được nếu tài sản có dấu hiệu giảm giá. Còn với chuẩn mực kế toàn Việt Nam (VAS 18) thì không chấp nhận ghi giảm giá trị tài sản dài hạn.

Bất động sản đầu tư, FRS cho phép doanh nghiệp chọn mô hình đánh giá lại tại giá trị hợp lý và sự thay đổi so với giá hợp lý được ghi nhận vào báo cáo KQKD hoặc mô hình chi phí giữ nguyên giá và trừ khấu hao và lỗ do việc giảm giá trị của tài sản. Chuẩn mực kế toán VAS 05 yêu cầu các doanh nghiệp chỉ áp dụng mô hình chi phí.

Với các công cụ tài chính, VAS không có chuẩn mực tương đương với FRS. Vì thế việc ghi nhận, đánh giá trình bày những khoản mục này trên báo cáo tài chính thiếu chính xác, không phân tách được lãi/lỗ của các khoản đầu tư.

Ví dụ với FRS tài sản tài chính được đánh giá theo 2 phương pháp là giá trị hợp lý và nguyên giá trừ giá trị hao mòn. Với định giá theo giá trị hợp lý thì tài sản được đánh giá theo giá trị thông qua lãi lỗ hoặc khả năng sẵn sàng để bán. Còn với phương pháp nguyên giá thì phụ thuộc vào tài sản giữ đến khi đáo hạn hay là tài sản vay và phải thu.

VAS bao gồm 26 chuẩn mực được ban hành từ 2001 dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế mà không có cập nhật. Trong khi FRS đã thay đổi, hiện có 37 chuẩn mực và 9 diễn giải có hiệu lực.

Chính những khác biệt này khiến cho việc đánh giá chất lượng tài sản của các ngân hàng trên chuẩn kế toán Việt Nam có sự sai lệch khá lớn so với thực tế.

Chuẩn mực kế toán không đầy đủ, thiếu cập nhật khiến cho không chỉ cơ quan quản lý, nhà đầu tư khó đánh giá chất lượng ngân hàng mà bản thân các ngân hàng cũng không đánh giá đúng chất lượng doanh nghiệp vay vốn với những bản báo cáo KQKD theo VAS.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã bước đầu được tiến hành thông qua việc hợp nhất 3 ngân hàng. Tuy nhiên cơ quan quản lý cần xem xét sớm ban hành chuẩn mực kế toán chặt chẽ, hợp lý hơn để quá trình tái cấu trúc ngân hàng thực sự chất lượng, hiệu quả.
 


Theo Cao Sơn

TTVN
 


Trung tuần tháng 12: NHNN chuẩn bị họp về “quota” tín dụng 2012

Ngày đăng : 12/12/2011 - 11:24 PM

Trên thị trường có thông tin cho rằng, chính sách tiền tệ năm 2012 sẽ tiếp tục thắt chặt để đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát, nên tăng trưởng tín dụng vẫn được hạn chế dưới 20%

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình vừa cho biết, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống tính đến cuối tháng 11 đạt trên 10% so với cuối năm 2010 và phấn đấu con số này trong cả năm nay khoảng 12 - 13%.

Nếu kể cả những khoản đầu tư có bản chất tín dụng khác thì tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng đến 31/12/2011 sẽ đạt khoảng 15%. Lãnh đạo một ngân hàng TMCP nhận định, mức dự kiến này là phù hợp bởi trên thực tế, trong tháng cuối cùng của năm, các ngân hàng chủ yếu thu hồi các khoản vay hơn là cho vay.

Dù không phủ nhận việc giới hạn tăng trưởng tín dụng là cần thiết và phù hợp trong bối cảnh lạm phát cao nhưng nhiều ý kiến cho rằng, việc cào bằng định mức tăng trưởng tín dụng như hiện nay là đang ưu ái các ngân hàng lớn.

Ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu nhận xét, mặc dù năm 2011, cơ quan quản lý đã có nhiều quyết sách mạnh mẽ trong việc cải tổ hệ thống ngân hàng, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, trong đó, việc giới hạn tăng trưởng tín dụng 20% và áp dụng đồng đều với các ngân hàng cần được thay đổi trong năm 2012.

Ông Trương Thanh Đức nhìn nhận, việc cào bằng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng dẫn đến tình trạng ngân hàng này muốn nhưng không tăng được, trong khi ngân hàng khác lại thừa nhiều hạn mức. Điều này không chỉ khiến nhiều DN không vay được vốn mà cũng làm khó cho các ngân hàng, bởi sức ép về yêu cầu tăng trưởng, tỷ lệ cổ tức tính trên số vốn điều lệ hiện tăng lên rất lớn; đồng thời, làm giảm dư nợ do lãi suất cao khiến nợ quá hạn, nợ xấu tăng lên.

Tăng trưởng tín dụng giai đoạn trước đây là 40%/năm, trong năm nay chỉ là dưới 20% thì nợ xấu sẽ tăng nhanh trong năm sau. Nợ xấu tăng, đương nhiên ngân hàng bị ảnh hưởng, nguy cơ DN bị thua lỗ và phá sản cao, nền kinh tế phải gánh hậu quả.

Phó tổng giám đốc phụ trách nguồn vốn của một ngân hàng TMCP cho biết, trên thị trường có thông tin cho rằng, chính sách tiền tệ năm 2012 sẽ tiếp tục thắt chặt để đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát, nên tăng trưởng tín dụng vẫn được hạn chế dưới 20%. Dù đây chưa phải là thông tin chính thức nhưng vị lãnh đạo này tính toán, nếu NHNN áp mức tăng trưởng dưới 20% thì coi như ngân hàng của ông "nghỉ ngơi" luôn trong cả năm 2012.

"Nếu NHNN dựa theo quy mô của từng ngân hàng làm tiêu chí đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng, nên phân chia như sau: nhóm ngân hàng có quy mô lớn hoặc nhỏ nhưng yếu: 10%; nhóm ngân hàng quy mô vừa và nhỏ: 25 - 30%; nhóm ngân hàng quy mô lớn và mạnh: tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trung bình của toàn hệ thống khoảng 17%", vị này gợi ý.

Ông Trịnh Văn Tuấn, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Phương Đông cho rằng, NHNN cần đề ra tiêu chí đánh giá cụ thể từng ngân hàng. Ví dụ như tổ chức tín dụng có khả năng quản trị tốt rủi ro hay không? Vốn điều lệ vừa tăng lên theo yêu cầu của NHNN là 3.000 tỷ đồng thì mức tăng trưởng tín dụng bao nhiêu là hợp lý? Hoặc đánh giá tín nhiệm "chuẩn" từng ngân hàng để có thể đưa ra mức tăng trưởng tín dụng phù hợp, để vừa tránh được sự tranh luận không cần thiết mà còn khiến các ngân hàng phải "tâm phục, khẩu phục"…

"NHNN đã khẳng định quan tâm tới chất lượng của các tổ chức tín dụng chứ không phải là quy mô thì giới hạn tăng trưởng tín dụng nên phản ánh điều đó. Đặc biệt, khi những tổ chức tín dụng có bảng cân đối kế toán tốt và quản lý tốt, thì họ phải được tăng trưởng dư nợ cao hơn các tổ chức khác. Điều này là vì lợi ích tổng thể của nền kinh tế Việt Nam", ông Louis Taylor, Tổng giám đốc Standard Chartered Việt Nam nhận định.

Ông Nguyễn Hồng Long, Phó chủ tịch điều hành, Giám đốc Trung tâm Kinh doanh và sản phẩm cấu trúc, Ngân hàng TMCP Kỹ thương nhận định, có thể việc siết tín dụng sẽ tiếp tục trong quý I/2012, còn sau đó, khả năng "nới lỏng" sẽ phụ thuộc vào kết quả các chỉ số vĩ mô đạt được trong quý này.

Do tình hình nợ xấu có xu hướng tăng, DN khó tiếp cận vốn, nhưng quan trọng hơn cả là lạm phát đang có chiều hướng giảm, có thể chính sách nới lỏng có kiểm soát sẽ được áp dụng. Hiện tại, việc áp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng riêng cho từng ngân hàng có thể chưa khả thi, tuy nhiên, NHNN có thể xem xét tách nhóm và có quy định tỷ lệ tăng trưởng đặc thù cho từng nhóm.

Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng bao nhiêu không nên chỉ được quyết định bởi quy mô tổng tài sản của ngân hàng nhỏ hay lớn, mà cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tỷ lệ nợ xấu, quy mô vốn, năng lực quản trị (con người, hệ thống), độ tập trung tín dụng hiện tại vào phi sản xuất…

Ví dụ, Ngân hàng A đang tập trung cho vay các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế trong năm 2012, có năng lực quản trị tốt, tỷ lệ an toàn vốn cao, thì có thể cho phép mức tăng trưởng cao hơn định mức chung. Hay nhóm ngân hàng lớn chiếm tỷ trọng chính yếu của thị trường thì nên nằm trong định biên của Chính phủ và NHNN đề ra, bởi tăng trưởng tín dụng của nhóm này ảnh hưởng rất lớn đến tổng phương tiện thanh toán của toàn hệ thống.

Còn nhóm ngân hàng nhỏ thì cần xem xét cụ thể: quản trị chưa tốt thì siết chặt tăng trưởng tín dụng, nhưng quản trị tốt thì có thể cho phép định mức tăng trưởng cao hơn.

"Việc cơ quan quản lý theo sát và có các chính sách phù hợp với đặc thù của từng nhóm, tiến tới là từng ngân hàng, chắc chắn sẽ giúp hệ thống hoạt động ổn định và tăng trưởng bền vững hơn", ông Long nói.

Ông Lê Minh Hưng, Phó Thống đốc NHNN cho biết, cơ quan này đã dự kiến xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng, trong đo, chỉ tiêu tăng trưởng sẽ được cân nhắc theo nhóm ngân hàng trên cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng như chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

"Trung tuần tháng 12 này, NHNN sẽ nhóm họp với các tổ chức tín dụng về vấn đề chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm 2012", ông Hưng cho biết.



Theo Nhuệ Mẫn
ĐTCK
 


 

Tin mới cập nhật