Hỏi - đáp với quan chức thống kê về kinh tế năm qua

Ngày đăng : 03/01/2012 - 5:22 PM

“Cần nhìn đằng sau con số” là câu nói đang được nhiều vị lãnh đạo các ngành, lĩnh vực “ưa dùng” thời gian gần đây.

 

 

Trong một năm kinh tế khó khăn với nhiều chỉ tiêu không đạt, liên quan đến tăng trưởng giảm sút, lạm phát “bốc đầu” tăng cao, hay nhập siêu giảm nhiều, nhưng chi ngân sách tăng mạnh trong bối cảnh thắt chặt tài khóa..., ngành thống kê đã có những lý giải từ con số chi tiết.

Trong khi tăng trưởng năm nay khoảng 5,89%, CPI tăng đến 18,13%. Tương quan giữa hai con số này nên được nhìn nhận như thế nào?

Ông Đỗ Thức, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê: Tổng cục Thống kê cho rằng nền kinh tế năm nay đã đạt mục tiêu, nhưng đấy là mục tiêu điều chỉnh, còn mục tiêu ban đầu xa hơn nhiều.

Về mặt số liệu, chúng tôi thấy Nghị quyết 11 lần này kiên quyết hơn, triệt để hơn và thấy hiệu quả hơn, nhất là tình hình lần này so với các lần trước.

Năm nay chính sách thắt chặt lại, M2 tăng khoảng 10%, dư nợ tín dụng tăng trên 12% một chút. Tổng cục Thống kê cho rằng Nghị quyết 11 ra hồi tháng 2 năm nay là đúng, không có thì CPI của chúng ta không thể thực hiện được kết quả như thế này.

Xuất khẩu đóng góp rất lớn vào tăng trưởng

Tổng cục Thống kê có thể giải thích thêm các yếu tố tích lũy tài sản, tiêu dùng cuối cùng, xuất nhập khẩu đóng góp như thế nào vào con số tăng trưởng năm nay?

Ông Hà Quang Tuyến, Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản Quốc gia: Năm 2011, tăng trưởng kinh tế đạt 5,89%. Theo tính toán của chúng tôi, đóng góp của xuất khẩu là 9,62%, nhập khẩu đóng góp âm 3,74%, cho nên đóng góp của chênh lệch xuất nhập khẩu vào GDP là 5,88%.

Ngoài ra, đóng góp của tiêu dùng cuối cùng vào tăng trưởng là 3,54%, trong đó tiêu dùng cuối cùng của nhà nước đóng góp 0,51%, của dân cư là 3,03%; và đóng góp của tích lũy tài sản là âm 4,14%.

Như vậy, có thể khẳng định rằng xuất khẩu năm nay đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế.

Với tăng trưởng GDP giảm sút, ngành công nghiệp trong năm nay ở nhiều thời điểm cũng rất khó khăn. Tổng cục Thống kê có giải thích gì về điều này?

Ông Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Vụ Thống kê công nghiệp: Công nghiệp Việt Nam đóng góp tới 34% vào tổng GDP và ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.

Về mặt số liệu, chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8%, thấp hơn 2,5 điểm phần trăm so với năm 2010 và 0,3 điểm phần trăm so với năm 2009 là năm khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng 6,8%, theo chúng tôi đánh giá trong tình hình khó khăn thế giới, nỗ lực của Chính phủ, các bộ ngành và doanh nghiệp thì không đến nỗi thấp, so với nhiều nước khu vực và nhiều nước thế giới là khá cao.

Ngành tác động lớn nhất đến tăng trưởng công nghiệp là công nghiệp chế biến. Năm 2011, ngành này tăng trưởng thấp ở mức 9,5%, trong khi năm 2010 tăng 12,3%.

Khó khăn ở ngành công nghiệp chế biến năm 2011 có các nguyên nhân chính như thị trường xuất khẩu toàn cầu giảm, sức cạnh tranh của nền kinh tế nhỏ như Việt Nam với các nước khu vực khốc liệt hơn, trong khi doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với điều kiện kỹ thuật công nghệ thấp. Cho nên, năm 2011 và các năm tiếp theo ngành này sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn.

Hơn nữa, 2011 là năm nhiều doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn về vốn, lãi suất cao dẫn đến khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất, phá sản…
  
Theo dự báo năm 2012, nhiều nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam sẽ tiếp tục gặp khó khăn, đặc biệt là tiêu thụ, dẫn tới công nghiệp Việt Nam còn khó khăn, rất cần hỗ trợ doanh nghiệp.

Xin hỏi, với ngành bất động sản được đánh giá là rất khó khăn trong năm nay. Thực tế con số thống kê cho thấy diễn biến về sản xuất kinh doanh của ngành này như thế nào?

Bà Hồ Thanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê Xây dựng và Đầu tư: Thị trường bất động sản, giá trị sản xuất cũng nằm trong khối xây dựng nhà ở. Trong bối cảnh chung về xây dựng nhà ở, xây dựng dân dụng và các hoạt động xây dựng khác đều giảm thì thị trường bất động sản giảm. Cụ thể là thị trường xây dựng nhà ở chỉ còn bằng 98% so với giá so sánh 2010. Tức là, thị trường bất động sản cũng chững lại.

Ông Hà Quang Tuyến: Với ngành bất động sản, giá trị gia tăng của ngành này trong năm nay tăng 1,83%, thấp hơn mức tăng 2,62% của năm 2010 và thấp hơn cả mức 2,55% của năm 2009. Ngành này có 3 hoạt động là kinh doanh bất động sản giảm, nhưng khấu hao nhà tự có tự ở của dân cư và dịch vụ tư vấn thì tăng. Khi sử dụng số liệu cho thấy điều đó.

Tiền tệ, tài chính gây áp lực lớn đến lạm phát

Tổng cục Thống kê đã từng nhìn nhận lạm phát là biểu hiện của việc tiền nhiều hơn hàng. Xin giải thích rõ vì sao trong khi tăng tổng phương tiện thanh toán được công bố là 10%, tín dụng 12% nhưng lạm phát vẫn cao tới 18,13%?

Ông Đỗ Thức: Không có gì khó hiểu cả, bởi vì chúng ta có nói tiền của chúng ta hiện nay là bao nhiêu đâu so với tổng GDP. Tiền chúng ta tích lũy nhiều năm rồi, nhiều năm tín dụng, M2 tăng cao rồi, lượng tiền trong dân, tiền mặt, tiền gửi lớn hơn tổng GDP làm ra. Trong điều kiện ấy, giá tăng, CPI là 18,13%.

Tổng cục Thống kê dùng mô hình, những con số M2, vòng quay của tiền tệ, tăng trưởng, lạm phát, chúng tôi chỉ cần cố định 2-3 nhân tố, chỉ thay đổi M2 lên 15% thì CPI năm nay phải khoảng 25% trở lên, chứ không phải chỉ có trên 18%. Cho nên năm nay, tôi cho là thực hiện Nghị quyết triệt để hơn thời kỳ 2008.

Phải tiếp tục duy trì thắt chặt đến khi cân bằng lại được thì mới đưa lạm phát xuống được. Tiếp tục duy trì như thế này thì CPI không thể tăng cao tiếp được.

Bà Trần Thị Hằng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê: Lạm phát là việc kéo dài rất nhiều năm, do mất cân đối tiền hàng. Liên quan đến việc đó, chúng tôi cũng có nghiên cứu đánh giá các tác động đến CPI nói chung, đó là lạm phát cơ bản. Nó thể hiện rất rõ trong lạm phát cơ bản này.

Ví dụ năm 2008, khi CPI bình quân năm tăng 22,9% thì lạm phát cơ bản trừ lương thực, thực phẩm tăng 16,3%, nếu trừ thêm năng lượng thì tăng 15,4%, tức là nó chiếm gần 70% trong CPI chung. Năm 2009, CPI bình quân tăng 6,9%, lạm phát cơ bản vẫn tăng trên 9%.

Năm 2011, với CPI bình quân tăng 18,58% thì lạm phát cơ bản loại trừ lương thực, thực phẩm tăng 15,1%, loại trừ tiếp năng lượng thì tăng 14%, vẫn chiếm khoảng 70-80% của tốc độ CPI chung.

Chúng ta thấy, rõ ràng chính sách tiền tệ, tài chính đã đẩy áp lực đến CPI lớn hơn việc biến đổi giá hàng hóa. Phân tích như vậy để thấy điều hành của Chính phủ trong thời gian tới, cả chính sách tiền tệ và tài khóa phải thắt chặt mới có thể làm cho lạm phát đi vào ổn định.

Tác động của việc tăng giá điện, giá xăng dầu đến lạm phát trong năm nay như thế nào?

Ông Nguyễn Đức Thắng, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá: Giá điện trong năm qua tăng 24,29%. Với tỷ trọng điện sinh hoạt chiếm 2,46% thì điện góp làm tăng CPI 0,6%. Điện tác động tăng CPI mấy vòng, chúng tôi tính tăng giá trực tiếp đến giá sinh hoạt thôi, còn qua sản xuất chúng tôi chưa tính.

Thế còn xăng dầu năm vừa qua giá tăng 2 lần và giảm 2 lần, chúng tôi tính là giá xăng dầu tăng 30,27%. Với tỷ trọng xăng dầu hiện nay là 3,64% thì chúng tôi tính nó làm tăng CPI khoảng 1,1%.

Chỉ số giá bán người sản xuất hàng công nghiệp tăng 18,43%, thấp hơn chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất (21,27%) và chỉ số giá cước vận tải (18,52%). Tương quan này cho thấy điều gì?


Ông Nguyễn Đức Thắng: Song hành với việc giá nhập khẩu hàng hóa tính bằng ngoại tệ tăng, tỷ giá trong nước được điều chỉnh tăng (9,3% từ ngày 11/2/2011) đã làm cho giá hàng nhập khẩu bị tăng kép.

Hai nữa là hàng nguyên liệu nông lâm nghiệp cũng tăng cao tới 30,6%, cũng là tăng giá rất lớn; thực phẩm và đồ uống; than cũng tăng 27%; kim loại nhập khẩu tăng 19%; khí đốt tăng trên 27%… tất cả các nhóm này ảnh hưởng tổng chung lại chỉ số giá nguyên nhiên liệu đầu vào tăng 21,27%.

Đúng là đầu vào tăng cao hơn hàng đầu ra là vấn đề khó khăn cho doanh nghiệp trong năm 2011, sản phẩm đầu ra cũng tăng giá nhưng không kịp giá đầu vào.

Ông Đỗ Thức: Quan hệ giá đầu vào cao hơn đầu ra sản xuất, một tín hiệu báo sản xuất sẽ rất khó khăn. Nhưng có một điểm là giá đầu ra của sản xuất công nghiệp thấp hơn giá đầu vào, nhưng ngược lại giá đầu ra của sản xuất nông nghiệp cao hơn hẳn và điều đó hoàn toàn phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Nước ta là nước nông nghiệp, sản xuất nông sản nhiều nên giá đầu ra sản xuất nông nghiệp cao có lợi cho người dân Việt Nam thôi, không có gì đáng phải hoang mang cả. Nếu giá nông nghiệp ngược lại thì với 70% người dân sống ở nông thôn mới là cái đáng lo.

Xin hỏi, với cân đối vĩ mô năm tới gồm GDP khoảng 6%, và tổng phương tiện thanh toán tăng 14-16%, tín dụng tăng 15-17% thì lạm phát có giữ được mức một con số không và Tổng cục dự kiến ở mức nào?

Ông Đỗ Thức: CPI năm tới, căn cứ vào quan hệ giữa vòng quay tiền tệ, cung tiền, tăng trưởng, thì lạm phát tiềm năng tính được cho năm 2012 khoảng 10,4%. Quan sát nhiều năm lạm phát tiềm năng luôn cao hơn lạm phát thực tế 1-2%. Tính như vậy, với điều kiện khác không đổi, chúng tôi tin rằng năm tới chúng ta có thể kìm được lạm phát 1 con số.

Trước nay, giá tăng cao năm trước thì thường năm sau thấp hơn, trừ năm rồi tác động lớn của khủng hoảng, giá thế giới cao nên không nằm trong xu hướng. Điều kiện là M2 không được tăng cao. Nếu cứ cung tiền ra thì không thể giữ được.

Cắt giảm đầu tư: Tư nhân “bám đuổi” nhà nước

Theo số liệu chi ngân sách trong năm nay, tổng chi đã tăng khoảng 24% so với thực hiện năm 2010. Xin hỏi trong số liệu của Tổng cục Thống kê, việc cắt giảm đầu tư thể hiện như thế nào?

Ông Hà Quang Tuyến: Đầu tư, chúng ta biết đóng góp khoảng 60% vào tăng trưởng kinh tế, khoảng 2/3 vốn đầu tư hình thành nên giá trị sản xuất của ngành xây dựng. Vốn đầu tư 2011 có giảm, loại từ yếu tố giá còn 90,6% so với năm 2010. Cho nên, vốn giảm, giá trị ngành xây dựng giảm.

Tuy nhiên giảm vốn năm nay trong bối cảnh cắt giảm đầu tư công, điều chuyển từ công trình không hiệu quả sang có hiệu quả, đưa vào sử dụng nhanh thì có đóng góp nhất định.

Số dự án hoàn thành thêm trong năm 2011 so với năm ngoái là 1.053 dự án. Những dự án này sẽ tham gia ngay vào quá trình sản xuất. Tính chung cả năm có khoảng 4.400 dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng.

Bà Hồ Thanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê xây dựng và đầu tư: Về đầu tư toàn xã hội, cho đến nay, số liệu theo giá hiện hành, chúng ta đạt 105% so với cùng kỳ nhưng so với giá so sánh chỉ còn trên 90%.

Khu vực nhà nước có tổng số vốn cắt giảm khoảng 81,5 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 9% tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó có 30 nghìn tỷ đồng nhờ điều hành của Chính phủ và 50,5 nghìn tỷ đồng là từ ngân sách nhà nước…

Khu vực FDI và ngoài nhà nước đầu tư từ hai nguồn vốn là tự có và vay, thì trong tình hình khó khăn chung, không có đầu ra để đầu tư mở rộng sản xuất. Năm 2011, tính đến nay khu vực nhà nước còn bằng khoảng 90%; khu vực ngoài nhà nước là 90,5% và FDI là 93,1% của năm ngoái, đấy là theo giá so sánh với 2010.

Xuất nhập khẩu: Biến động lớn nhất là vàng

Theo số liệu thống kê, nhập siêu năm nay giảm về mức 9,5 tỷ USD và chỉ bằng 9,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với các mặt hàng cần kiểm soát nhập khẩu, thay đổi về giá trị kim ngạch trong năm nay như thế nào?

Lê Thị Minh Thủy, Vụ trưởng Vụ Thống kê thương mại và dịch vụ: Hàng cần kiểm soát có 6 nhóm thì tính chung trong năm 2011 tăng 42%, nhưng tỷ lệ có khác nhau.

Chẳng hạn rau quả tăng không đáng kể; bánh kẹo và sản phẩm chế biến từ ngũ cốc tăng ở mức 5%; phế liệu sắt thép tăng về lượng 5% và trị giá 26%; linh kiện ô tô dưới 9 chỗ ngồi thì tăng 12%; linh kiện xe máy tăng khá mạnh 34%.

Và cuối cùng, nhập khẩu vàng tăng rất mạnh và ảnh hưởng đến mức tăng của nhóm hàng cần kiểm soát, tăng tới 101,6%. Nhóm này chiếm tỷ trọng 50% các mặt hàng cần kiểm soát nên tính chung lại là tăng 42%.

Liên quan đến xuất nhập khẩu vàng, xin hỏi về lượng trong năm nay xuất khẩu và nhập khẩu bao nhiêu, kim ngạch bao nhiêu? Việt Nam có xuất giá thấp nhập giá cao như một số lo ngại trước đây không?

Lê Thị Minh Thủy: Năm nay, xuất khẩu vàng và sản phẩm từ vàng khoảng 2,1 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 1,9 tỷ USD, tăng khá nhiều so với năm ngoái.

Về nguồn số liệu, chúng tôi không có số liệu lượng. Tuy nhiên, căn cứ vào biểu đồ giá bình quân trên thị trường thế giới, chúng tôi ước tính xuất khẩu vàng năm vừa rồi khoảng từ 35-38 tấn.

Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu vàng rơi vào các tháng 5, tháng 7 và tháng 8 còn một chút. Nhưng diễn biến giá tăng từ tháng 6, tăng cao vào tháng 8-9. Lúc giá tăng cao rồi thì xuất khẩu vàng của chúng ta chững lại, giá trong nước tăng cao và Ngân hàng Nhà nước cấp phép nhập khẩu.

Với kết quả rất lạc quan về nhập siêu trong năm nay, xin hỏi liệu tính bền vững của nhập siêu trong thời gian tới nên nhìn nhận như thế nào?

Bà Lê Thị Minh Thủy: Năm nay có đặc thù xuất khẩu tăng mạnh, nhập khẩu tăng thấp hơn nên nhập siêu thấp so với mọi năm. Điểm này có hai nguyên nhân là nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước đối với hàng tiêu dùng và nguyên, nhiên liệu sản xuất trong năm nay giảm đi, hai là do chính sách kiểm soát nhập khẩu phát huy tác dụng.

Nếu xét về bản chất, tôi cho rằng với nền sản xuất của chúng ta, hàng xuất khẩu có tỷ trọng hàng gia công còn lớn, chưa thay đổi ngay được. Những năm tới đây, nhà nước có chính sách thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp phụ trợ thì khi đó nếu có được sản xuất các mặt hàng này thì tỷ trọng tiêu dùng nguyên liệu nội địa tăng lên, lúc đó mới kiểm soát nhập siêu tốt.

Tôi nghĩ rằng năm nay đã có tín hiệu tốt, cùng với các biện pháp kiểm soát của Chính phủ thì nhập siêu sẽ dần được kiềm chế. Tuy nhiên, chúng ta cũng không lạc quan quá là nhập siêu sẽ tiếp tục được như năm nay, vẫn cần tiếp tục phải có cảnh báo.

Ông Đỗ Thức: Năm nay nhập siêu ở mức độ thấp kể cả số tuyệt đối, đặc biệt là so với xuất khẩu. Trong điều kiện nước ta khó khăn, không thể hy vọng cứ giảm nhập siêu so với năm trước.

Năm nay giảm như vậy, với xuất khẩu tăng thì có 2/3 là do yếu tố giá, 1/3 do lượng, trong đó về lượng thì nhiều hàng nông, lâm, thủy sản tăng nhưng nhóm hàng này bao giờ cũng có giới hạn, không thể như công nghiệp tăng 10-20% được. Nông nghiệp tăng 4-5% đã quá tốt rồi, nên không thể hy vọng tăng quá cao nếu dựa vào nông nghiệp.

Nhập siêu muốn ổn định thì phải một số năm mới rút ra được xu hướng. Còn năm nay chúng ta cho rằng nó tốt nhưng không thể khẳng định là nó sẽ tiếp tục xu hướng như năm 2011.

Xin hỏi tình hình nhập siêu dịch vụ trong năm nay như thế nào?

Bà Lê Thị Minh Thủy: Năm nay nhập siêu dịch vụ là 3 tỷ USD, nhưng cần lưu ý là xuất khẩu tính theo giá FOB, nhập khẩu tính theo giá CIF. Nhập khẩu hàng hóa năm nay nếu tính theo giá FOB con số là khoảng 94,74 tỷ USD, trong đó chi phí bảo hiểm và vận tải chiếm 7,4 tỷ USD.

Con số 7,4 tỷ USD này so với tổng nhập khẩu dịch vụ chiếm trên 60%. Như vậy, chúng ta thấy là nhập khẩu dịch vụ thì trọng số nhiều nhất là bảo hiểm và vận tải.

Điều này cũng phản ánh khả năng cạnh tranh của các hãng vận tải Việt Nam trên thị trường quốc tế. Qua điều tra thì chúng tôi thấy với 7,4 tỷ USD nhập khẩu dịch vụ của năm nay, hãng vận tải của Việt Nam khi có nhập khẩu về chỉ gánh vác được 20%, còn lại toàn bộ là các hãng vận tải nước ngoài.

 

Theo VnEconomy.vn

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Điều hành tỷ giá đã có nghề!

Ngày đăng : 03/01/2012 - 5:17 PM

Chủ động hướng thị trường theo định hướng, không chạy theo thị trường là điểm nổi bật trong điều hành tỷ giá năm 2011, cho thấy điều hành tỷ giá đã mang phong cách quản lý tiền tệ mới: phong cách chuyên nghiệp.

 

Dấu ấn hợp đồng kỳ hạn và ngoại tệ thứ ba

Kể từ tháng 8-2011, hai động thái điều hành tỷ giá xuất hiện. Thứ nhất trong hai tháng 9 và 10, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên tiếp bán ngoại tệ can thiệp sau khi Thống đốc tuyên bố tỷ giá không biến động quá 1% cho đến cuối năm. Ước đoán khoảng 2 tỉ đô la Mỹ đã được cơ quan quản lý ngành ngân hàng “bơm” vào thị trường nhằm kéo tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá chính thức về gần nhau, chỉ còn chênh lệch khoảng 100-150 đồng/đô la Mỹ. Đây là đợt can thiệp dồn dập, có hệ thống, có chủ đích và công khai nhất trong nhiều năm trở lại đây.

Kế đó NHNN bắt đầu điều hành linh hoạt tỷ giá bằng 15 lần điều chỉnh tỷ giá công bố hàng ngày. Sự linh hoạt này không báo trước, không theo quy luật và có sự cách biệt về mức độ. Có ngày tỷ giá tăng/giảm 5 đồng, có ngày 10 đồng, thậm chí 15 đồng. Có thời điểm ngày nào cũng điều chỉnh, hoặc hai ngày, ba ngày, 5-7 ngày/lần. Kết quả là thay vì nhìn vào tỷ giá thị trường tự do, giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng quay sang nhìn vào tỷ giá công bố chính thức.

Cùng lúc, các giao dịch ngoại tệ qua một đồng tiền thứ ba (chủ yếu là euro, đô la Úc, đô la Canada, Singapore...) được mở lại. Hai năm trước, giao dịch ngoại hối qua một đồng tiền thứ ba bị cấm hoàn toàn. Bây giờ NHNN không nói rõ là “hết cấm”, song gần như lờ hẳn việc các ngân hàng mời chào doanh nghiệp giao dịch ngoại tệ khác thay thế một khi họ có nhu cầu đô la Mỹ. Giải pháp này ngay lập tức đẩy nguồn cung ngoại tệ tăng lên và tỷ giá giao dịch thật sự trở nên uyển chuyển.

Trong khi đó, việc lãi suất huy động tiền đồng đứng ở mức cao và chưa có dấu hiệu rời khỏi trần 14%/năm, đã đặt các nhà xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ vào tình trạng “khó nghĩ”. Họ không thể không tận dụng lãi suất cao của tiền đồng, nhất là khi tỷ giá có chiều hướng ổn định. Kết quả là các hợp đồng kỳ hạn bán ngoại tệ cho ngân hàng trước khi ngoại tệ về để lấy tiền đồng được áp dụng. Sự găm giữ ngoại tệ giảm hẳn, mà bằng chứng rõ nhất là số tiền ký gửi thanh toán quốc tế trên tài khoản tụt xuống nhanh chóng.

Thay vì nằm bất động một chỗ chờ tỷ giá lên hưởng lợi, ngoại tệ được các doanh nghiệp, thông qua ngân hàng, quay vòng trên thị trường với các hợp đồng giao ngay (spot). Cùng một lượng ngoại tệ, chỉ cần vòng quay kinh doanh tăng lên, thì không những doanh số tăng, mà cung cầu cũng cân bằng hơn.

Công ty Chứng khoán TPHCM (HSC) trích dẫn số liệu từ các ngân hàng, cho biết giao dịch hợp đồng kỳ hạn từ chỗ chỉ chiếm 6-7% thời gian trước đã nhảy lên 10-12% tổng giao dịch ngoại hối hiện tại. Eximbank, Techcombank, Quân đội là những ngân hàng nhạy bén, hoạt động mạnh nhất trong mảng kinh doanh dạng này. “Với thị trường kỳ hạn, một phần cầu ngoại tệ đã được giải thoát trước cuối năm, giúp giải phóng áp lực lên thị trường ngoại hối giao ngay. Đây là một trong những lý do giải thích cho làn sóng bán đô la Mỹ từ nhiều nguồn gần đây” - HSC nhận định.

Gia tăng sức đề kháng cho tiền đồng

Hơn 2 tỉ đô la Mỹ được bán ra, ước 45.000 tỉ đồng đã được NHNN hút về - một sự hút về không có hạn định. Trên thực tế đây là sự rút cung tiền đồng có chủ định, làm giảm tổng phương tiện thanh toán nhằm tới mục tiêu tiết giảm tối đa sự đầu cơ ngoại tệ. Không thể đầu cơ ngoại tệ nếu không có nguồn tiền đồng dồi dào. Chưa kể trước đó trạng thái ngoại hối của các ngân hàng đã được rút xuống 20% vốn tự có từ mức 30% tồn tại từ 10 năm nay; đồng thời tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ tăng lên.

Như vậy tiền đồng đã có hai cái neo vững chắc: lãi suất huy động cố định ở mức hấp dẫn và tổng phương tiện thanh toán không được “bơm” thêm, trái lại còn giảm bớt. Bên cạnh đó, giá trị của đồng tiền Việt được bồi đắp thêm bằng sự yếu thế của đô la Mỹ trong con mắt người gửi tiền: chênh lệch lãi suất tiết kiệm đồng nội tệ và ngoại tệ lên tới 10 điểm phần trăm/năm - một tỷ lệ đủ sức bù đắp cho sự phá giá tiền đồng nếu có. Từ đây, người dân có xu hướng giữ tiền đồng thay vì ngoại tệ và do đó nhu cầu ngoại tệ trên thị trường tự do hạ xuống. Sự dịch chuyển tiết kiệm từ đô la Mỹ sang tiền đồng đem lại hiệu ứng tích cực cả về mặt tâm lý lẫn thực tiễn.

Sự “chen ngang” của vàng

Sự biến động mạnh của giá vàng quốc tế, sự chênh lệch ở mức cao tại nhiều thời điểm giữa giá vàng nội và ngoại, niềm tin chưa tuyệt đối vào giá trị đồng tiền Việt Nam là những nhân tố biến vàng trở thành kênh đầu tư, đầu cơ và tích lũy năm nay. Kênh đầu tư vàng càng tỏ ra vượt trội khi mà bất động sản, chứng khoán vô cùng ảm đạm.

Thị trường vàng có mối quan hệ mật thiết với thị trường ngoại tệ và tất nhiên, với tỷ giá. Trong trường hợp giá vàng thế giới không lên xuống (ổn định), nếu tỷ giá tăng (tiền đồng mất giá), thì giá vàng trong nước vẫn tăng lên. Mặt khác, tỷ giá thị trường tự do chịu tác động mạnh của giá vàng. Mỗi khi giá vàng quốc tế giảm, lại phát sinh hiện tượng gom đô la mặt để nhập vàng lậu.

Ba tháng qua, NHNN đã cố gắng khống chế tỷ giá thị trường tự do bằng cách không cho SJC dập thành vàng miếng vàng nguyên liệu có nguồn gốc không rõ ràng (chỉ vàng nhập khẩu chính thức theo hạn ngạch được dập thành vàng miếng). NHNN thậm chí chủ trương chuyển SJC thành một đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình và kiểm soát lượng vàng miếng chế tác theo cung cầu thị trường.

Điểm đáng chú ý hơn là với việc cho phép năm ngân hàng được mở tài khoản vàng ở nước ngoài, nhu cầu đô la Mỹ để nhập khẩu vàng đã chuyển từ thị trường tự do sang thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng bán vàng trong nước, mua vàng tài khoản nước ngoài để cân đối, nhưng họ không nhập vàng vật chất ngay. Họ thường lựa thời điểm giá vàng quốc tế giảm mới nhập.

Vì thế mỗi khi giá vàng thế giới tụt dưới 1.600 đô la Mỹ/ounce, giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng lại sôi động và tỷ giá lại “ngóc đầu” dậy. Lúc này thay bằng can thiệp thường xuyên, NHNN chỉ can thiệp khi cầu trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng “bùng phát” do nhập vàng.

Sự can thiệp này khiến tỷ giá thị trường tự do không thể biến động mạnh. Bước chuyển biến này của điều hành tỷ giá cho thấy NHNN đã nhìn thấy tâm huyệt của vấn đề và có đối sách phù hợp.

Cùng với các biện pháp hành chính như phạt nặng, tịch thu nếu giao dịch ngoại tệ với tiệm vàng, thu hẹp và kiểm tra, thanh tra liên tục các bàn thu đổi ngoại tệ; giải pháp kiểm soát thị trường liên ngân hàng để qua đó điều khiển thị trường tự do của NHNN đã có thành công nhất định.
 

Từ chuyên nghiệp đến nghệ thuật

Năm 2012 tỷ giá chịu ảnh hưởng từ nhiều phía.

Thứ nhất, lạm phát tích tụ ba năm (2009-2011) khá cao, làm cho tỷ giá hiện hành có thể phải điều chỉnh 10-15%.

Thứ hai, đồng đô la Mỹ đang mạnh lên trên thị trường quốc tế do bất ổn ở châu Âu, ít nhiều cũng tác động đến đồng Việt Nam.

Thứ ba, lãi suất tiền đồng đang cao và giữ khoảng cách khá lớn so với lãi suất đô la Mỹ. Mức lãi suất cao này không thể duy trì lâu dài bởi sẽ ảnh hưởng đến sức chịu đựng của doanh nghiệp cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ tư là biến động của giá vàng quốc tế. Vàng khó giảm giá do Mỹ duy trì lãi suất thấp đến năm 2013. Lạm phát thế giới có thể tăng do các ngân hàng trung ương vẫn tiếp tục in tiền. Như vậy giá vàng ở Việt Nam chưa thể giảm và nhu cầu cũng chưa thể hạ thấp.

Trong tất cả các yếu tố, lãi suất tiền đồng là then chốt với tỷ giá. Từ tháng 8-2011 đến nay, mức tăng chỉ số CPI đều giảm theo tháng. Năm 2012, khi lạm phát giảm dần, lãi suất tiền đồng sẽ phải giảm theo tỷ lệ thuận. Khi lạm phát kỳ vọng đã xuống, lãi suất tiền đồng giảm mức độ nào, thời điểm nào là cả một nghệ thuật điều hành. Nếu lãi suất không đứng ở đúng vị trí của nó, câu chuyện thanh khoản dễ lặp lại, cung cầu tiền đồng có thể căng thẳng ngay cả khi lạm phát suy giảm. Mặt khác, nếu kỳ vọng về vàng còn tăng, dân có thể rút tiền đồng mua vàng. Tiền đồng này bị hút vào, chuyển hóa thành đô la Mỹ thanh toán vàng nhập khẩu. Vòng xoáy có thể cứ thế lặp lại...

Cân nhắc thời điểm, mức độ điều chỉnh lãi suất tiền đồng cũng chính là điều hành tỷ giá. Sáu tháng đầu năm 2012 là thời điểm thách thức của chính sách tiền tệ. Thanh khoản tiền đồng, thanh khoản ngoại tệ trong bối cảnh NHNN vừa tuyên bố tăng trưởng tín dụng năm 2012 khoảng 15-17%, tổng phương tiện thanh toán 14-16%, sẽ là tâm điểm vận động của thị trường.

“Thanh khoản chỉ là vấn đề lòng tin hơn bất cứ vấn đề nào khác. Chỉ cần doanh nghiệp duy trì lòng tin vào chính sách tiền tệ của NHNN, họ sẽ tiếp tục quay vòng ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng và không liều lĩnh găm giữ, đầu cơ. Các tổ chức tài chính và công ty thuộc sở hữu nhà nước cũng hành động tương tự. Đây là nơi mà chính sách tiền tệ khôn ngoan phải hướng tới” - HSC nhận xét trong một báo cáo gần đây.

Có lẽ nên thêm rằng lòng tin vào chính sách tiền tệ cần phải có cả từ phía người dân. Đã có thời điểm người dân đua nhau bán ngoại tệ cho ngân hàng. Liệu bao giờ người dân sẽ lại đua nhau bán vàng và gửi vàng cho ngân hàng? Câu trả lời còn ở phía trước!

 

Theo Hải Lý

TBKTSG

 


Lộ trình chính sách cho năm 2012

Ngày đăng : 01/01/2012 - 9:45 AM

Nhìn lại việc thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và đề xuất một số giải pháp cho năm 2012.

 

 

Về thắt chặt tín dụng

Thử điểm lại những diễn biến chính trên thị trường.

Vào ngày 3-3-2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số 02 quy định mức trần lãi suất huy động tiền đồng 14%. Ngày 8-3, NHNN tăng hầu hết các mức lãi suất trên thị trường lên mức 12%/năm, trừ lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên 9%/năm. Lãi suất tái chiết khấu có mức tăng mạnh nhất, từ 7% lên 12%.

Đến giữa tháng 3, NHNN đã hút hết các lượng tiền cung ra trước đó trong tháng 1 cho dịp Tết. Các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng tìm mọi cách lách để duy trì được nguồn vốn huy động của mình nhằm đảm bảo hoạt động cho vay. Ngoài ra những chỉ tiêu trong Nghị quyết 11 nhằm thắt chặt tín dụng là một áp lực cho các ngân hàng hạn chế cho vay. Theo đó lĩnh vực cho vay phi sản xuất đặc biệt là bất động sản và chứng khoán cũng bị buộc giảm cho vay. Hệ lụy ngay lúc này là lãi suất tín dụng thị trường tự do tăng đến 60%/năm.

Tiếp đến là chỉ thị 01 và 02 của NHNN về xử phạt các NHTM lách luật nhằm minh bạch hóa thị trường tín dụng. Lãi suất tái chiết khấu được nâng lên 13%/năm và lãi suất tái cấp vốn là 15%/năm. Áp lực lên các ngân hàng cũng căng thẳng hơn và những rủi ro tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng bắt đầu lộ diện. Đặc biệt là cuộc chạy đua lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, có lúc lên đến 30%/năm, cho thấy sự thiếu hụt thanh khoản của các ngân hàng cũng như tính không đều nhau, có ngân hàng dư tiền cho vay, có ngân hàng lại thiếu hụt nghiêm trọng.

Nhưng từ đầu quí 4, NHNN đã bắt đầu bơm ròng trên thị trường mở nhằm đáp ứng nhu cầu cho thị trường. Chính sách bắt đầu nới lỏng dần, ngay cả cho khu vực bất động sản.

Nhìn chung, đã đạt được một số chỉ tiêu quan trọng như hạn chế tăng trưởng tín dụng tính đến cuối tháng 11 chỉ hơn 9,36% và ước tính đạt 12% vào cuối năm (nếu tính cả một số khoản khác có bản chất tín dụng thì con số này sẽ là 15%) và hoàn thành chỉ tiêu đề ra. Tổng phương tiện thanh toán dự kiến đạt 12% cả năm. Nhưng nếu nhìn từ khía cạnh các tổ chức tín dụng thì có nhiều bất cập, đặc biệt về tình hình thanh khoản và sự cạnh tranh không cân bằng bắt nguồn từ chính sách cào bằng tất cả các NHTM với nhau.

Về phân bổ tín dụng


Tính đến tháng 8, tín dụng cho sản xuất tăng 14,79%, trong đó tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng 30,5%; tín dụng xuất khẩu tăng 35,02%; tín dụng phi sản xuất giảm 16,95% (cụ thể dư nợ cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán giảm 43,03%, dư nợ cho vay để đầu tư kinh doanh bất động sản giảm 10,1%, và dư nợ cho vay tiêu dùng giảm 23,12%).

Giữa tháng 11, NHNN ban hành thông tư mới loại trừ bốn lĩnh vực bất động sản khỏi tín dụng phi sản xuất như một hình thức nới lỏng tín dụng cũng như để giúp vực dậy khu vực này. Nhưng biện pháp này chỉ giúp cho NHTM dễ thở hơn trước quy định đưa tín dụng phi sản xuất về 16% vào cuối năm, chứ chưa hỗ trợ nhiều cho việc vực dậy thị trường.

Về tỷ giá và thị trường vàng

Thị trường ngoại hối và vàng được NHNN giám sát chặt chẽ khi những tín hiệu bất ổn không kiểm soát được xảy ra trong thời gian qua. NHNN bắt đầu mạnh tay hơn để xử lý các trường hợp vi phạm quy chế quản lý ngoại hối. Điển hình là 1.000 cuộc thanh tra trong sáu tháng. Nghị định xử phạt hành chính với mức nặng hơn: tối đa 500 triệu đồng và tịch thu tài sản. Đây cũng là tín hiệu tích cực cho nền kinh tế nhằm xóa bỏ cơ chế hai giá, cũng như tránh tình trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam.

Tỷ giá tạm được ổn định vào cuối năm mặc dù tín dụng ngoại tệ vẫn tăng mạnh từ quí 2. Thị trường ngoại tệ tự do đã bị thu hẹp đáng kể. Chênh lệch tỷ giá giữa thị trường này so với thị trường chính thức giảm xuống, thậm chí có thời điểm thấp hơn cả thị trường chính thức.

Không chỉ vậy, tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường chính thức thường chưa sử dụng hết biên độ giao dịch ±1%. Điều này đã giúp cho trạng thái ngoại tệ của các NHTM được cải thiện khi doanh nghiệp và người dân đã bán ngoại tệ cho ngân hàng; chuyển dần việc gửi/vay ngoại tệ sang mua/bán đứt đoạn ngoại tệ với ngân hàng.

Nhờ đó, tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng bình quân liên ngân hàng có xu hướng giảm và tỷ giá mua - bán của NHTM có nhiều thời điểm thấp hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng.

Chính sách tài khóa


Theo Bộ Tài chính, ước cả năm 2011, thu ngân sách đạt 674.500 tỉ đồng (tăng khoảng 13,4% so với dự toán và tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010). Chi ngân sách là 796.000 tỉ đồng (tăng 9,7% so với dự toán, 18,8% so với thực hiện 2010). Bội chi là 4,9% (kế hoạch 5,3%). Ước dư nợ công 54,6% GDP, dư nợ chính phủ 43,6% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 41,5% GDP.

Hầu hết các chỉ tiêu được Bộ Tài chính hoàn thành. Tuy nhiên, các số thu và chi đều vượt dự toán ngân sách là do phản ánh mức lạm phát cao (18-19%) và tiền đồng mất giá hơn dự báo từ năm ngoái lúc chuẩn bị ngân sách 2011.

Vấn đề quan trọng nhất mà Bộ Tài chính và Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội phải xem lại là các con số dự toán ngân sách 2012 (dù đã được Quốc hội chấp thuận) có mắc sai lầm như những năm trước không vì mức lạm phát cao tiềm ẩn trong các số thu-chi cao của ngân sách sẽ lại gây lạm phát cao trong năm mới. Ngoài ra, Chính phủ luôn phải quan tâm đến nguồn để bù đắp khoản bội chi. Với tình hình kinh tế hiện nay thì việc vay nước ngoài hay trong nước cũng không dễ.

Vài đề xuất ngắn hạn

Thứ nhất, do quy định trần lãi suất huy động hiện nay có hiệu quả kém, NHNN nên bỏ trần lãi suất huy động cũng như không nên áp đặt trần lãi suất cho vay. Bởi một khi áp đặt các biện pháp hành chính thì sẽ lại xuất hiện tình trạng “lách luật” của các ngân hàng như đã làm.

Do đó, nên để cho các ngân hàng tự xác định lãi suất dựa theo cung, cầu của thị trường. NHNN không nên quá lo ngại về lãi suất huy động từ dân cư, mà thay vào đó thị trường liên ngân hàng mới là trọng tâm mà NHNN cần quan tâm.

Lãi suất các ngân hàng cho nhau vay hiện đã vênh quá xa so với lãi suất cấp vốn của NHNN trên thị trường mở. Các ngân hàng lớn có lợi thế về vốn đang trở thành nhà cho vay nặng lãi với các ngân hàng nhỏ, gián tiếp đẩy cuộc đua lãi suất lên cao.

Thứ hai, cần giám sát các khoản nợ xấu và có hành động thích hợp để tránh một hệ quả không tốt. Chỉ “hợp nhất” vài ngân hàng yếu chưa phải là giải pháp thích hợp cho lâu dài. Nợ xấu không chỉ phát sinh bởi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, hay do lãi suất quá cao khiến cho lợi nhuận làm ra không đủ trả lãi ngân hàng, mà nó còn nảy nở ngay chính từ nội bộ các ngân hàng.

Chỉ trong vòng hai tháng trở lại đây, số lượng các vụ vi phạm về cho vay, lừa đảo, tham nhũng tại các NHTM gia tăng đáng kế. Lâu nay vấn đề rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng luôn là nỗi ám ảnh đối với các nhà băng. Khi lãnh đạo không làm hết trách nhiệm, cán bộ tín dụng bị tha hóa vì đồng tiền cùng với hệ thống quản trị rủi ro, kiểm soát lỏng lẻo sẽ vô cùng nguy hiểm.

Thứ ba, cần điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để đảm bảo thực hiện được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và đưa nền kinh tế phát triển. Chính sách tiền tệ chỉ có thể được nới lỏng khi lạm phát đã giảm xuống một con số và được kiểm soát một cách ổn định vào năm tới.

Vào cuối tháng 11, NHNN đã thông báo bắt đầu nới rộng việc cho vay vào khu vực bất động sản và tìm cách vực dậy khu vực này. Hy vọng đây không phải là các tín hiệu chính sách tiền tệ bắt đầu nới lỏng mạnh, mà chỉ là các giải pháp điều hành linh hoạt hơn phù hợp với chủ trương điều hành chính sách tiền tệ vẫn thận trọng.

Mặc dù vậy, lãi suất trên thị trường mở giảm sẽ tạo điều kiện cho các NHTM tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn. Điều đó cùng với việc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã hạ nhiệt mới đây (từ giữa tháng 11) sẽ tạo điều kiện cho các NHTM giảm được chi phí vốn, từ đó giảm lãi suất cho vay.

Thứ tư, cần có những biện pháp cụ thể để hạn chế việc vay vốn bằng đô la Mỹ vì nó có thể đẩy tỷ giá hối đoái tăng lên trên 22.000 đồng/đô la Mỹ vào đầu năm 2012.

Thứ năm, kiềm chế lạm phát vẫn là ưu tiên chính sách đối phó số 1 trong năm mới 2012. Ngoài việc duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ như đã nêu trên, gần như tất cả giới quan sát chính sách đang chờ một tín hiệu quyết đoán và rõ ràng hơn của Chính phủ về chính sách tài khóa.

 

Theo Phạm Đỗ Chí

 TBKTSG


 


Vốn FDI vào Việt Nam 2011: Ai bảo thấp không hay?

Ngày đăng : 30/12/2011 - 6:10 PM

“Phải nhìn phía sau của con số mới thấy được ý nghĩa”, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Đỗ Nhất Hoàng lưu ý như vậy về tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2011.


 

Lời ông Hoàng nói tại buổi họp báo sáng 30/12 như để lý giải cho nhiều con số không đạt trong năm nay, đặc biệt là về vốn giải ngân và vốn đăng ký.

Nhìn về mặt con số, thu hút FDI trong năm nay khá đuối. So với mức dự kiến giải ngân năm nay là 11,5 tỷ USD, thực tế chỉ đạt 11 tỷ USD, bằng với năm ngoái.

Riêng về vốn đăng ký, tính đến 15/12, vốn đăng ký mới và đăng ký tăng thêm tại Việt Nam đạt 14,7 tỷ USD, giảm  tới 26% so với năm 2010. Trong đó, riêng vốn đăng ký mới đạt 11,6 tỷ USD, bằng giảm 35%.

So với chỉ tiêu thu hút 20 tỷ USD vốn FDI đặt ra cho năm nay, con số thực tế vào cuối năm đã không đạt. “Dù số vốn đăng ký giảm nhưng đã có những chuyển biến theo hướng tích cực”, Cục Đầu tư nước ngoài lưu ý.

Bóc tách “chi tiết con số”, như ông Hoàng nói, vốn FDI đăng ký trong năm 2011 tập trung 76,4% vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, cao hơn hẳn tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực này năm 2010 (54,1%).

Ngược lại, FDI vào lĩnh vực bất động sản trong năm 2011 chỉ còn chiếm 5,8% tổng vốn đăng ký, trong khi năm 2010, lĩnh vực này chiếm 34,3%.

“Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có sự đánh giá tích cực về môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thế Phương nhìn nhận.

“Điểm nôi bật là năm nay dự án tỷ đô giảm”, Cục trưởng Đỗ Nhất Hoàng cho biết thêm. Theo dữ liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, cả năm 2011, Việt Nam chỉ thu hút 2 dự án có vốn đăng ký trên 1 tỷ USD, trong khi năm 2008 là 11 tỷ USD…

“Nếu chúng tôi trừ lại các dự án trên 1 tỷ thì con số khoảng 11-12 tỷ USD trong mấy năm gần đây đều đều như vậy và vốn giải ngân cũng đều đều như vậy”, ông Hoàng cho biết.

Quan điểm của ông Phương và ông Hoàng cũng được hỗ trợ bởi các dữ liệu về sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp này. Tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI bao gồm cả dầu thô ước đạt 54,5 tỷ USD, chiếm 59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 39% so với năm 2010.

Cục Đầu tư nước ngoài cũng lưu ý rằng kết quả như vậy đã cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước.

Giá trị kim ngạch nhập khẩu của khu vực này tương ứng đạt 47,8 tỷ USD, tăng 38% so với năm trước. Như vậy, khu vực doanh nghiệp FDI đã xuất siêu khoảng 6,7 tỷ USD trong năm nay (kể cả dầu thô), hay nhập siêu 600 triệu USD (không tính dầu thô).

Một con số khác liên quan là đóng góp vào thu nội địa năm nay của khu vực doanh nghiệp FDI đạt khoảng 3,5 tỷ USD, trong khi năm ngoái là 3 tỷ USD, ông Hoàng cho rằng, với tình hình năm nay khó khăn như vậy, việc đóng góp vào ngân sách vượt năm ngoái có nhiều ý nghĩa hơn nữa.

Lũy kế đến ngày 15/12, Việt Nam có tổng cộng 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%. Singapore là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 24 tỷ USD, tiếp theo là Hàn Quốc, Nhật và Đài Loan. Tp.HCM vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp theo là Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.

Về quan điểm thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, quản lý FDI sẽ chú trọng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả vốn FDI; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước; hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về FDI.

Về định hướng, Cục cho biết sẽ thu hút FDI có chọn lọc, định hướng vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp “xanh”, thân thiện với môi trường, lĩnh vực tạo liên kết với các khu vực kinh tế khác và liên kết vùng; công nghiệp hỗ trợ, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh; lĩnh vực công nghệ cao, đào tạo nguồn nhân lực…

“Dự kiến năm tới 15-16 tỷ USD đăng ký, giải ngân 10-11 tỷ USD”, ông Đỗ Nhất Hoàng cho hay.
 


Kinh tế 2011 và dấu ấn chuyên gia: Chưa bao giờ như năm nay

Ngày đăng : 29/12/2011 - 10:22 AM
Hơn 10 tháng trước, trong phòng chờ chuyến bay Hà Nội - Tp.HCM hôm 22/2, người viết bài này tình cờ gặp một vị chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia.
 
Khoảng một giờ trước đó, ông có mặt tại cuộc tham vấn của người đứng đầu Chính phủ với Hội đồng này và một số chuyên gia kinh tế khác.
 
Ấn tượng nhất tại đây, được ông chia sẻ là, sau khi nghe ý kiến của các chuyên gia, phát biểu kết thúc của Thủ tướng không đề cập đến “tăng trưởng” một lần nào, mà đồng tình với nhiều giải pháp mạnh để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
 
Hơn một ngày sau (ngày 24/2), Nghị quyết 11 về những giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ được ban hành, với hàng loạt con số và biện pháp được coi là “cứng rắn” để điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, cắt giảm mạnh đầu tư công…
 
Vào một ngày trong tháng cuối cùng của năm nay, khi cả những điều hay và chưa hay của nghị quyết này đã được kiểm chứng bằng một thời gian kha khá, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển, nay là thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia đã "bật mí" thêm đôi điều.
 
Dẫn dắt câu chuyện từ cuộc họp của Chính phủ có nội dung xem xét điều chỉnh tỷ giá tới 9,3% vào giữa tháng hai năm nay, ông Tuyển nói rằng khi đó Thủ tướng, các phó thủ tướng và các vị bộ trưởng trong lĩnh vực kinh tế đều ủng hộ việc điều chỉnh tỷ giá.
 
Cá nhân ông không phản đối nhưng bày tỏ thái độ băn khoăn, vì nếu chỉ điều chỉnh tỷ giá thì không giải quyết được vấn đề bất ổn vĩ mô đang được đẩy đến cao trào.
 
Sau đó, diễn biến trên thị trường càng chứng tỏ đây là phản ứng chính sách không hợp lý, và ông tự coi mình là "tòng phạm".
 
"Tôi viết một bức thư cho Thủ tướng, ở đó tôi nói là điều chỉnh tỷ giá không những không đem lại hiệu quả mà ngược lại còn làm thị trường phức tạp hơn và đề nghị có giải pháp thật sự đồng bộ, bao gồm cả chính sách tiền tệ nói chung (lãi suất, tín dụng và tỷ giá chứ không chỉ có tỷ giá) rồi cả chính sách tài khóa như cắt giảm đầu tư công...", ông Tuyển kể tiếp.
 
Cũng vẫn theo lời kể của ông thì sau đó, Thủ tướng cũng thấy tình hình và giao cho Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Phạm Văn Phượng dự thảo nghị quyết của Chính phủ về các giải pháp để ổn định kinh tế vĩ mô.
 
"Khi anh Phượng đưa tôi xem thì tôi bảo đề nghị Thủ tướng mời các chuyên gia để nghe các anh góp ý, và sau đó nghị quyết đã được ban hành".
 
Nhìn nhận vẫn còn có hai điểm "chưa hay lắm", song, ông Tuyển nhấn mạnh rằng nhìn chung đây là nghị quyết tốt, được các chuyên gia kinh tế trong nước và quốc tế đánh giá cao.
 
Tán thành với nhận định của ông Tuyển là nhờ Nghị quyết 11 mà kinh tế vĩ mô được cải thiện, TS. Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia, cũng là người có mặt tại cuộc tham vấn mang tính quyết định cho sự ra đời của Nghị quyết 11, cho rằng, nếu nhìn lại thời điểm tháng 2/2011 thì tình hình kinh tế đã sáng hơn.
 
"Điểm sáng quan trọng nhất là đã tập trung mọi giải pháp để giải quyết bộ ba lạm phát - tỷ giá - lãi suất", ông nói với VnEconomy.
 
Điểm sáng thứ hai, ông Lịch đặc biệt nhấn mạnh rằng rất quan trọng. Đó là chưa bao giờ có sự đồng thuận rất cao trong cả hệ thống chính trị về quyết tâm tái cấu trúc nền kinh tế như thời điểm hiện tại.
 
Đây cũng lại là một vấn đề mang đậm dấu ấn của các nhà khoa học và các chuyên gia kinh tế, theo ghi nhận của người viết, song xin được đề cập sâu hơn tại bài viết khác.
 
Quay trở lại Nghị quyết 11, ở các đánh giá dù trong hay ngoài diễn đàn chính thức, đây vẫn là điểm sáng cực kỳ quan trọng trong điều hành kinh tế của năm nay, khi bất ổn vĩ mô được đánh giá là trầm trọng hơn và lạm phát đã trở nên nhức nhối hơn bất cứ lúc nào.
 
Và, các thông tin nhiều chiều đều ghi nhận, từng câu chữ tại đây đều mang đậm dấu ấn về sự đồng lòng của các chuyên gia kinh tế, đội ngũ được chính một số người trong cuộc gọi vui là “dàn đồng ca”.
 
Sự “tự trào” này cũng có lý do của nó. Bởi, như Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, TS. Trần Đình Thiên, tại một diễn đàn về kinh tế vĩ mô hồi cuối tháng 9/2011 đã “than thở” rằng: năm nay đội đồng ca phản biện chính sách được mời liên tục. Đi nhiều có cái hay nhưng chứng tỏ tình hình có vấn đề.
 
Nhận định này đã nhận được sự chia sẻ của nhiều tên tuổi đã trở nên quen thuộc tại các cuộc tham vấn, không chỉ cho các cơ quan hành pháp.
 
TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận xét rằng, sự đồng lòng của các chuyên gia tại các cuộc tham vấn và nhiều diễn đàn khác rất cao, chưa bao giờ có được như năm nay.
 
"Anh em được mời tham vấn cho Chính phủ đều hiểu nhau, suy nghĩ, đề xuất đều rất “chụm”, nên gửi gắm qua nhiều kênh nhưng thông điệp mang tính thống nhất cao, đó là điều rất đáng mừng", ông Thành nói.
 
Tuy nhiên, điều còn băn khoăn là cơ chế phối hợp nào để hiệu quả tham vấn cao hơn, thì ông Thành “chưa nghĩ ra”.
 
Thời điểm những băn khoăn này được bộc bạch cũng chính là lúc mật độ các cuộc tham vấn chuyên gia khá dày đặc. Bởi hàng loạt các báo cáo, kế hoạch về kinh tế xã hội của năm nay, năm sau và cả giai đoạn từ nay đến 2015 đang được gấp rút hoàn thành để chuẩn bị trình Quốc hội tại kỳ họp cuối năm.
 
Còn nhớ, trước thềm kỳ họp Quốc hội thứ hai, khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận về kế hoạch 5 tới, trước “chất vấn” tại sao Chính phủ trình chỉ tiêu tăng trưởng GDP thấp hơn mức đã được Đại hội Đảng 11 thông qua, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, một trong những lý do để có quyết định đó là lắng nghe và tiếp thu ý kiến chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước.
 
“Thủ tướng lúc đầu cũng quyết là chỉ có bám theo chỉ tiêu của Đại hội, nhưng sau khi nghe ý kiến nhiều chuyên gia trong nước, quốc tế và phân tích thực tế, nếu không nhìn thẳng vào tình hình để điều chỉnh thì kịch bản điều hành chắc chắn là bị động” ông Vinh nói.
 
Dấu ấn chuyên gia ở câu chuyện hạ chỉ tiêu này cũng được một vị chuyên gia kinh tế nổi tiếng kể lại cặn kẽ hơn. Theo vị chuyên gia này thì người đứng đầu Chính phủ đã “thấy vấn đề” khi trăn trở với câu hỏi tại sao lạm phát của Việt Nam cao hơn nhiều nước khác?
 
Cảm nhận của ông qua hai ngày thảo luận của Chính phủ về kế hoạch 2011 - 2015 là đa số các thành viên vẫn bị “ám ảnh rất chính đáng” là thể hiện trách nhiệm chính trị, khi chỉ tiêu tăng trưởng vừa được Đại hội Đảng thông qua.
 
"Anh Ba (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - PV) rất băn khoăn nên lại trao đổi với tôi và mời tham vấn chuyên gia ở quy mô hẹp để có thời gian nghe được nhiều hơn, sâu hơn, và đa số ý kiến  đề nghị chỉ nên để ở mức 6%", ông kể tiếp.
 
Rồi ông tâm tư, nói thật là bây giờ thích nghỉ ngơi, định xin thôi không làm tư vấn nữa, nhưng Thủ tướng vẫn yêu cầu….
 
Tư vấn chính sách, đương nhiên không phải là công việc nhàn nhã.
 
Một vị tiến sỹ kinh tế ở Tp.HCM kể rằng, có tuần ông nhận được lời mời đến ba cuộc tham vấn, và không phải vấn đề nào cũng có thể chuẩn bị như mình mong muốn.
 
Song, để cho các vị lãnh đạo mới có thể tiếp cận những vấn đề của nền kinh tế hệ thống hơn, nhiều chiều hơn những thông tin được đưa ra tại cuộc gặp gỡ, bên cạnh các phát biểu, ông thường chuẩn bị các bài viết sâu về các vấn đề của kinh tế vĩ mô để gửi đến các vị.
 
Hay, khi tham gia ý kiến về kế hoạch 5 năm tới, ông đã phân tích cả quá trình thực hiện 4 kế hoạch 5 năm từ khi đổi mới, để đưa ra nhiều đề xuất mới về giải pháp cho 5 năm tiếp theo.
 
Cũng như nhiều vị khác, ông tâm sự, niềm vui lớn nhất của các chuyên gia kinh tế độc lập là kết quả nghiên cứu, những đề xuất tâm huyết được lắng nghe, tiếp thu.
 
"Khi nào kinh tế khó khăn thì chúng tôi "đắt khách", nhưng tôi không mong "đắt" theo cách đó", vị chuyên gia này tâm tư. 
 
Theo Nguyên Thảo
VnEconomy

Sáu luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012

Ngày đăng : 28/12/2011 - 4:54 PM

Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc hỗ trợ ban đầu các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân trong những trường hợp cần thiết và thông báo ngay với Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội.


Sáu bộ luật gồm Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phòng, chống mua bán người; Luật Kiểm toán độc lập; Luật Viên chức; Luật Thuế bảo vệ môi trường và Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012.

Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ kiểm toán

Luật Kiểm toán độc lập có 8 Chương với 64 Điều, được thông qua ngày 29/3/2011 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XII.

Việc ban hành Luật Kiểm toán độc lập nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán độc lập. Tăng cường, quyền nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán viên hành nghề và đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận dịch vụ kiểm toán, đặc biệt là đơn vị có lợi ích công chúng, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư, Nhà nước và tổ chức liên quan.

Luật Kiểm toán độc lập có điểm mới đáng chú ý là Bộ Tài chính với tư cách cơ quan quản lý nhà nước sẽ cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán, đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán cũng như thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán độc lập.

Luật cũng quy định, tiêu chuẩn trở thành kiểm toán viên là phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đạo đức tốt, có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc chuyên ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán và phải có Chứng chỉ kiểm toán viên.

Kiểm toán viên phải có thời gian thực tế làm công tác kiểm toán 36 tháng trở lên và tham gia đầy đủ chương trình cập nhật kiến thức mới được đăng ký hành nghề.

Để đảm bảo chất lượng kiểm toán, Luật quy định doanh nghiệp kiểm toán phải bố trí nhân sự có trình độ chuyên môn phù hợp. Ngoài ra, để bảo đảm thông tin cho kiểm toán, luật quy định nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán là cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời thông tin, không được có hành vi hạn chế phạm vi các vấn đề cần kiểm toán.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về viên chức

Luật viên chức kết cấu gồm 6 Chương, 62 Điều. Điểm mới cơ bản của Luật viên chức so với Pháp lệnh cán bộ, công chức là đã làm rõ khái niệm viên chức, phân biệt viên chức với cán bộ và công chức.

Sự khác biệt cơ bản của viên chức so với cán bộ, công chức chính là chế độ tuyển dụng gắn với vị trí việc làm, thông qua chế độ hợp đồng làm việc và tiền lương được hưởng từ quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập.

Một trong những nguyên tắc được nhấn mạnh để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức là “việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá viên chức được thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm và căn cứ vào hợp đồng làm việc.”

Đây là nguyên tắc đặt nền móng để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức theo chế độ việc làm, nhấn mạnh năng lực, tài năng bên cạnh phẩm chất và trình độ.

Luật Viên chức quy định rõ việc chuyển đổi giữa viên chức và cán bộ, công chức, đó là các trường hợp viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập từ đủ 5 năm trở lên thì được xét chuyển thành công chức không qua thi tuyển; viên chức được tiếp nhận, bổ nhiệm vào vị trí việc làm được pháp luật quy định là công chức thì quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm đồng thời là quyết định tuyển dụng; cán bộ, công chức được chuyển sang làm viên chức khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật viên chức; công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi hết thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại những vẫn tiếp tục làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển sang làm viên chức và được bố trí công việc phù hợp; viên chức chuyển sang làm cán bộ, công chức hoặc ngược lại đều được bảo đảm các quyền lợi về chế độ, chính sách.

Luật Viên chức tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao nhằm xây dựng và quản lý đội ngũ viên chức có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và cộng đồng; phát huy tính năng động, sáng tạo và tài năng của viên chức; thúc đẩy nâng cao chất lượng phục vụ người dân và cộng đồng của các đơn vị sự nghiệp công lập; đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về viên chức, thúc đẩy phát triển khu vực sự nghiệp công lập; xây dựng cơ chế quản lý viên chức theo vị trí việc làm; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong quản đội ngũ viên chức...

Không thu phí xăng dầu từ ngày 1/1/2012

Với 4 chương, 13 điều, Luật Thuế bảo vệ môi trường được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền với giảm ô nhiễm môi trường, phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và những năm tới.

Luật góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó thay đổi nhận thức, hành vi của tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng nhằm giảm phát thải ô nhiễm tại nguồn... Phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường.

Đáng chú ý là Luật quy định về tám nhóm đối tượng sản phẩm gây tác động xấu đến môi trường và sức khỏe con người phải chịu thuế, gồm xăng dầu, than đá, dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (dung dịch HCFC), túi nilông thuộc diện chịu thuế, thuốc trừ cỏ, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử trùng kho, thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng.

Luật cũng ghi rõ, trường hợp xét thấy cần thiết phải bổ sung đối tượng chịu thuế khác cho phù hợp với từng thời kỳ thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quy định; khi luật có hiệu lực thi hành thì không thu phí xăng dầu.

Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp: Tăng cường quản lý nhà nước đối với đất đai

Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được ban hành nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với đất đai, khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, góp phần hạn chế đầu cơ về đất và khuyến khích thị trường bất động sản phát triển lành mạnh.

Luật khắc phục những mặt hạn chế của chính sách thuế nhà, đất hiện hành, nâng cao tính pháp lý của pháp luật về thuế đất trên cơ sở bổ sung mới và kế thừa các quy định còn phù hợp...

Luật gồm 4 chương với 13 điều quy định cụ thể đối tượng chịu thuế bao gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và đất phi nông nghiệp khác sử dụng vào mục đích kinh doanh cho phù hợp với Luật Đất đai 2003.

Luật quy định tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế là người nộp thuế. Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất là người nộp thuế.


Thay đổi thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 29/3/2011.

Một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng lần này là việc thay đổi thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Cụ thể, trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý; chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Các tranh chấp không thuộc các trường hợp nêu trên thì thời hiệu khỏi kiện vụ án dân sự là vẫn là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm như quy định trước đây.

Luật cũng sửa đổi một số quy định theo hướng mở rộng quyền giải quyết của tòa án trong các vụ việc, vụ án về dân sự. Theo đó, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được bổ sung hai loại là tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Luật sửa đổi, bổ sung cũng ghi nhận việc các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, tổ chức thẩm định giá tài sản nhằm đảm bảo nguyên tắc tự thỏa thuận trong giao dịch dân sự. Tòa án chỉ ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp sau khi các bên không tự thỏa thuận được tổ chức định giá tài sản hoặc các bên đã thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước.

Luật sửa đổi, bổ sung lần này quy định thêm thủ tục mới là “Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.”

Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người

Với 8 chương và 58 điều, Luật Phòng, chống mua bán người quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm hành vi mua bán người theo quy định của Bộ luật hình sự và các hành vi trực tiếp liên quan đến việc mua bán người mà Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia liệt vào danh sách các hành vi buôn bán người để điều chỉnh một cách có đầy đủ, toàn diện các hành vi vi phạm trong lĩnh vực phòng, chống mua bán người.

Luật quy định rõ các chính sách của Nhà nước trong phòng, chống mua bán người, đáng chú ý là chính sách kết hợp phòng, chống mua bán người với việc thực hiện chương trình phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các chương trình khác về phát triển kinh tế-xã hội.

Luật xác định Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội là đầu mối chính tiếp nhận và hỗ trợ cho nạn nhân. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi cho nạn nhân, luật cũng quy định trước khi đến với Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội, nạn nhân có thể được một số cơ quan khác tiếp nhận, hỗ trợ ban đầu trong trường hợp cần thiết như Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan giải cứu, cơ quan, tổ chức khác.

Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc hỗ trợ ban đầu các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân trong những trường hợp cần thiết và thông báo ngay với Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội.

Trong thời hạn chậm nhất là ba ngày, kể từ khi nhận được thông báo của Ủy ban nhân dân cấp xã, Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện việc tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và phối hợp với cơ quan công an cùng cấp xác định thông tin ban đầu về nạn nhân trong trường hợp nạn nhân chưa có giấy tờ, tài liệu chứng nhận nạn nhân.

Luật phòng, chống mua bán người đi vào cuộc sống góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người, hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng, tạo thuận lợi cho hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người.


Theo Phúc Hằng
TTXVN/Vietnam+
 


 

Tin mới cập nhật