Điểm mặt những cú sốc kinh tế năm 2011

Ngày đăng : 05/12/2011 - 10:56 AM

Năm 2011 Việt Nam vẫn ghi nhận những cú "sốc" kinh tế trên nhiều lĩnh vực...
 

 

 

Lạm phát giảm dần, cân đối tài chính vĩ mô có sự chuyển biến tích cực, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, an sinh và các vấn đề xã hội bức xúc được quan tâm tháo gỡ, tuy nhiên, năm 2011 Việt Nam vẫn ghi nhận những cú "sốc" kinh tế trên nhiều lĩnh vực...

Một là dồn dập điều chỉnh tỷ giá và tăng giá xăng, dầu, điện..

"Mở hàng" đầu năm là cú sốc điều chỉnh tỷ giá VND với USD (tăng 9,3% từ ngày 11/2/2011). Tiếp ngay sau đó là những cú sốc dồn dập về tăng giá xăng- dầu (tăng từ 17-24%) và giá điện (tăng 15,2% từ 1/3/2011).

Sự hội tụ tập trung trong thời gian ngắn những cú sốc tăng giá "khủng" sau thời gian dài cố nén trước đó đã làm bùng phát các xung lực tiêu cực. Hệ lụy là lạm phát cao kéo dài với mức trên 1% so với tháng trước suốt 3 quý đầu năm, khiến 3 lần Chính phủ phải chính thức điều chỉnh mức CPI từ mức kế hoạch đến cuối năm 2011 là 7,5% lên 15%, rồi phấn đấu đạt chỉ 18%, bất chấp đã có cải thiện rõ rệt so với mọi năm về hạn mức tăng tín dụng (chỉ còn khoảng 12% so với kế hoạch dưới 20%) và thâm hụt NSNN (chỉ còn 4,8% so với kế hoạch 4,9%).

Hai là cuộc hỗn chiến kiểm soát thị trường ngoại hối, sự chênh lệch kéo dài giá vàng trong và ngoài nước, Thương hiệu vàng SJC đột ngột chính thức lên ngôi  Thương hiệu Vàng Quốc gia

Năm 2011 cũng ghi nhận những cú sốc mới, gây khá nhiều tranh cãi cả trên nghị trường, cũng như các phương tiện thông tin đại chúng và tạo lúng túng cho ngân hàng, cũng như những nghi ngại cho người dân về cố gắng kiểm soát thị trường ngoại hối theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 23/2/2011 của Chính phủ;  đặc biệt là các động thái cố gắng  không chế trần lãi suất huy động và hạn mức tín dụng, hạn chế  đối tượng được tiếp cận giao dịch tín dụng ngoại tệ, thậm chí tịch thu ngoại tệ buôn bán "ngoài luồng"; lập rào cản hành chính „tiêu chuẩn hóa" nhằm giảm thiểu đối tượng đủ chuẩn được phép thực hiện nhiệm vụ độc quyền Nhà nước về nhập khẩu, sản xuất và buôn bán vàng miếng.

Điều này cũng khiến chệnh lệch giá vàng trong nước với nước ngoài tăng vọt tới 3-5 tr.đ/lượng (so với tối đa 2 tr.đ/lượng năm 2010) và kéo dài khó hiểu hàng tháng trời, bất chấp tuyên bố của Thống đốc NHNN về mức chuẩn phải là giá vàng trong nước chỉ chênh tối đa 400.000 đ/lượng với giá vàng thế giới.

Kết cục cuộc hỗn chiến này còn sốc hơn khi chốt hạ là thương hiệu vàng SJC của Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang hoạt động kinh doanh vị lợi nhuận  và trực thuộc UBNDTPHCM, được lên ngôi chính thức trở thành Thương hiệu Vàng Quốc gia qua tuyên bố đột ngột của Thống đốc NHNN trong một buổi chất vấn tại  kỳ họp 2 Quốc hội khóa 13 diễn ra cuối tháng11/2011, mà không cần qua một bất kỳ hành trình thủ tục về lập và thông qua đề án của một  đại sự như vậy..!

Ba là bùng nổ nợ khó đòi ngân hàng & đổ vỡ tín dụng đen

Dù được tiên liệu từ đầu năm, song dư luận cũng không tránh khỏi sốc khi nghe tin nợ xấu của khối ngân hàng  thương mại tăng vọt tính đến cuối tháng 10/2011 lên 76000 tỷ đồng, tức tới trên 3,5% tổng dư nợ (trong khi có tổ chức nước ngoài cho rằng con số thực là 13,5%), trong đó 47% là nợ khó đòi.

Đặc biệt, dư luận càng sốc hơn khi biết các DNNN chiếm tới 60% tổng dư nợ và 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại.

Hơn nữa, những vụ đổ vỡ tín dụng đen bùng nổ trên nhiều địa phương cả nước, nhất là ở các đô thị lớn vào những tháng cuối năm 2011, với quy mô „khủng" hàng vài trăm tỷ đồng, đã không chỉ tạo sốc trong đời sống hàng trăm ngàn hộ gia đình có liên quan trực tiếp và gián tiếp, mà còn làm tăng sự e ngại về độ lành mạnh và nguy cơ tạo sốc đổ vỡ đômino của thị trường tín dụng trong nước...

Bốn là đại hạ giá  trên thị trường bất động sản & chứng khoán

Năm 2011 lần đầu tiên gây sốc cho nhà đầu tư khi bùng nổ những đợt đại hạ giá các bất động sản và chứng khoán vốn trong tình trạng ế dài trước đó. Không phải là việc đóng băng rồi chờ giá ấm, nóng  trở lại như mọi năm, mà thực sự là phải hạ giá từ 30-40%, thậm chí 50% so với giá đỉnh cao, nhưng vẫn khó tìm khách hàng đến với những chung cư cao cấp và nhà liền kề, biệt thự vốn bị bỏ hoang cả năm nay.

Sốc giảm giá trên thị trường chứng khoán còn thê thảm hơn, khi mà có những chứng khoán rớt giá thê thảm, còn không đến 900 đ/cổ phiếu, trong khi giá mỗi lần tẩm quất bình dân" vẫn giữ nguyên mức 60.000đ/lượt/45 phút, còn tuyệt đại đa số hàng hóa và dịch vụ khác đều đồng loạt tăng giá theo mức lạm phát....

Sáu là tăng vọt bất thường lượng doanh nghiệp thua lỗ, cuộc khẩu chiến bất phân thắng bại về lỗ hay lãi của ngành xăng dầu và mức lương đau lòng của ngành điện.

Dư luận thật sự sốc khi được biết, năm 2011 ở trong nước xuất hiện tình trạng, cứ 10 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, thì có tới 9 doanh nghiệp cũ bị giải thể, sáp nhập hoặc dừng hoạt động vì thua lỗ và không có tiền nộp thuế...

Thậm chí, có tới 450/495 doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung báo lỗ; khoảng 50% doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng hơn nửa số làng nghề trên cả nước  hầu như bị tê liệt vì lãi suất cao và khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Cuộc khẩu chiến về thực sự lỗ hay lãi của ngành xăng dầu và điện cũng chưa có hồi kết dù có bộc lộ thêm nhiều động thái phản ứng và thông tin tạo sốc mới của nhiều quan chức trong  và ngoài ngành, nhất là về cách tính lỗ và tuân thủ các quy định quản lý có liên quan .

Đặc biệt, dư luận quá sốc trước tin mức lương trung bình của ngành điện chỉ có 7,5 trđ/người dù ngành này đang lỗ nặng (do không được tùy ý tăng giá điện hay do đầu tư đa ngành), cao hơn mức lương tột đỉnh theo bảng lương Nhà nước duyệt cho bất kỳ nhà giáo hay nhà khoa học hàng đầu nào của Việt Nam. Mức lương này khiến quan chức ngành điện „đau lòng" và cũng gây đau lòng hơn cho các cán bộ, công nhân viên nhiều ngành khác khi nghĩ về mức lương của mình...!

Nhận diện những bất cập và đặc biệt xử lý tốt các hệ quả đã, đang và sẽ phát sinh của những cú sốc  kinh tế nêu trên trở thành một trong những yêu cầu bức thiết để ngăn ngừa và kiểm soát tốt hơn sự tái lặp các cú sốc đó trong tương lai...

 

TS. Nguyễn Minh Phong

 Tuần Việt Nam
 

This info is the cat's paajmas!
10/01/2012
This info is the cat's paajmas!

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Nói và làm: Mất cơ hội vì cải cách kiểu chậm đều

Ngày đăng : 05/12/2011 - 10:50 AM

Những hạn chế của môi trường kinh doanh Việt Nam tiếp tục kéo dài và chậm cải thiện đang làm mất lòng tin của nhiều nhà đầu tư nước ngoài ngay cả với DN trong nước.

 

Trong khi kinh tế khó khăn, môi trường kinh doanh càng cần được cải thiện một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Đó là sự hỗ trợ lớn nhất của Nhà nước cho cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong năm 2011, điều đó đã không được thể hiện. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam tụt hạng, đã có nhiều than phiền từ DN trong nước và cộng đồng đầu tư nước ngoài.

Không ít lời cảnh báo cho biết, sẽ từ bỏ Việt Nam tìm đến những thị trường khác nếu việc cải thiện môi trường đầu tư không có đột biến và vẫn duy trì tốc độ chậm đều như hiện nay.

Trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam xếp thứ 98 trên tổng số 183 nước trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2012, giảm 8 bậc so với năm 2011.

Trong khi đó, cộng đồng các nhà DN châu Âu (EuroCham) ở Việt Nam cũng công bố Sách Trắng 2012 - "Các vấn đề Thương mại - Đầu tư và kiến nghị" trong đó thể hiện sự thất vọng về việc cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam và lòng tin của DN châu Âu với Việt Nam đã có chiều hướng giảm mạnh từ đầu năm 2011.

Trọng một điều tra gần đây nhất (10/2011) về chỉ số môi trường kinh doanh hàng quý (BCI) của EuroCham Việt Nam, chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam đã giảm từ 78 xuống còn 52 điểm. Điều đó thể hiện một sự sụt giảm về lòng tin của nhà đầu tư châu Âu tại Việt Nam. Các doanh nghiệp châu Âu đang ngày càng lo ngại về môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam.

Đáng chú ý, báo cáo tại Diễn đàn DN Việt Nam đã cho rằng, mức độ cải thiện môi trường kinh doanh ở lĩnh vực gắn liền với chi phí đầu vào, đó là thuế và đất đai lại không có chuyển biến nhiều. Cùng đó, nhóm vấn đề ít cải thiện nhất năm 2011, bên cạnh bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hàng nhái hàng giả, VBF cho biết còn có nhóm vấn đề tiếp cận đất đai và tiếp cận ngoại tệ.

Đặc biệt, lần đầu tiên, vấn đề quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ được xếp vào nhóm 3 lĩnh vực đáng lo ngại nhất. Điều này là rất đáng lo ngại vì ổn định vĩ mô vốn là một thế mạnh của Việt Nam thì bất ổn kinh tế vĩ mô đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động của doanh nghiệp.

Chưa thể hài lòng với tốc độ cải thiện môi trường đầu tư chậm trong những lĩnh vực rất nhạy cảm với DN. Các nhà đầu tư tiếp tục chỉ ra những lĩnh vực mà Việt Nam cần cải thiện như: cải thiện và đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện hệ thống thông tin và viễn thông năng lượng, cải thiện hạ tầng vận tải, giảm rào cản gia nhập thị trường, vấn đề nhân lực...

Rõ ràng, đây không phải là những đề xuất mới mà là những vấn đề đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong đề xuất của các nhà đầu tư. Hơn thế, đây cũng chính là những nội dung mà Việt Nam đã nhận biết và rất nỗ lực để cải thiện.

Tuy nhiên, điều đáng tiếc là cho đến nay nhưng đề án, kế hoạch, các chương trình cải cách vẫn chưa đem lại được nhiều đột phá để thể hiện được ưu thế của Việt Nam trong canh tranh với các nền kinh tế khác.

Từ những cảnh báo này, nhìn lại trên thực tế cho thể thấy có rất nhiều hạn chế kéo dài, và đến nay như đã trở thành một thực tế tất yếu đầy thất vọng.

Đó chính là việc thiếu hụt năng lượng. Hàng năm, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng thiếu điện trầm trọng. Thế nhưng, hàng loạt nhà máy điện, công trình lưới điện đã được quy hoạch, khởi công... lại liên tục bị chậm tiến độ.

Quy hoạch điện VI đi vào kết thúc với khiếm khuyết lớn nhất là hàng chục nhà máy điện đã không được xây dựng theo tiến độ. Còn Quy hoạch điện VII khởi động lại đối mặt với vấn đề thiếu hụt tài chính, thua lỗ từ EVN... khiến cho nó lại được cảnh báo lặp lại trình trạng cũ. Và tất nhiên, với thực tế đó, năng lượng thiếu hụt vẫn còn kéo dài.

Mới đây, Bộ Giao thông Vận tải đã phải thông xe tạm một đoạn trên đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình vì đoạn đường cao tốc huyết mạch này đã chậm nhiều năm, Việc thông xe tạm để giảm tải cho Quốc lộ I chỉ như là một biện pháp cấp cứu cho con đường huyết mạch Bắc - Nam đã xuống cấp và quá tải trầm trọng.

Không những thế, hàng loạt đầu mối giao thông quốc tế lớn như: Vân Phong ở Khánh Hòa; Lạch Huyện ở Hải Phòng, Nhà gia và đường bằng T2 ở Nội Bài... tất cả đều trong tình trạng chậm trễ.

Thực tế đó khiến cho hạ tầng giao thông vốn đã yếu kém càng thể hiện một bộ mặt bất cập, không đáp ứng được sự phát triển kinh tế, Yếu điểm hạ tầng đã được gọi tên hàng chục năm nay, đã được đầu tư rất nhiều tiền nhưng chậm vẫn hoàn chậm và tắc vẫn tắc. Hạ tầng giao thông đang trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với các nhà đầu tư. Và nỗi ám ảnh đó có thể sẽ lớn dần khi sực cải thiện vẫn còn chậm chạp.

Còn đối với cải cách thủ tục hành chính, sau khi có được những đột phá trong giai đoạn trước với động thái thống kê và ông khai toàn bộ dữ liệu thủ tục hành chính quốc gia; thực hiện ra soát để đơn giản và cắt giảm nhiều thủ tục hành chính. Đáng kể nhất, một nghị quyết nêu rõ hàng trăm loại thủ tục cần cắt giảm đã ban hành đã thể hiện quyết tâm và cam kết của nhà nước với các DN.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là những bước đầu mà đến nay vẫn chưa có một báo cáo bao nhiêu thủ tục chính thức được cắt giảm theo yêu cầu, tác động của nó đến đâu. Và điều quan trọng hơn, đó mới chỉ là những thành quả bước đầu và cần phải phát huy mạnh mẽ hơn để đáp ứng những mong đợi của người dân và DN. Tuy nhiên, cho đến nay, nhà đầu tư vẫn đang vấp phải rất nhiều khó khăn và rắc rối vì thủ tục hành chính.

Kinh tế Việt Nam khó khăn khi lạm phát tăng cao, đối mặt với bất ổn vĩ mô. Điều đó buộc Chính phủ phải thực thi những chính sách thắt chặt để ổn định và hướng tới phát triển trong dài hạn. Các chính sách thắt chặt đó đã ảnh hưởng lớn đến các DN và nhà đầu tư. Tuy nhiên, với ý thức và cam kết đồng lòng với Chính phủ, cộng đồng DN vẫn tiếp tục ủng hộ chính sách thắt chặt để ổn định vĩ mô, tái cơ cấu và phát triển bền vững.

Trong khó khăn, khi không thể tăng vốn, tăng đầu tư cho DN và nền kinh tế thì việc quan trọng và hữu hiệu nhất để hỗ trợ các DN là phải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư trên các lĩnh vực: hạ tầng, năng lượng, thủ tục hành chính, nhân lực... để giảm chi phí, gia tăng cơ hội và hiệu quả cho DN.

Hơn thế, đây chính là những biện pháp quan trọng, căn cơ và dài hạn nhất để gia tăng năng lực cạnh tranh cho DN, cho nền kinh tế trong cuộc đua tranh phát triển với các nước trong khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, với thực tế cải thiện chậm chạp, thiếu những đột phá trong khi trên cùng đường đua, các nước khác lại có những bước đi mạnh mẽ để vượt lên, đẩy chúng ta tụt lại phía sau. Và điều lo ngại là khi tốc độ cải cách của nhiều nước liên tục được thúc đẩy và gia tăng thì tốc độ chậm đều có thể sẽ khiến Việt Nam gạt khỏi danh sách lựa chọn của các DN và nhà đầu tư lớn, suy giảm tính hấp dẫn của một thị trường tiềm năng. Và điều đó chẳng khác nào là chúng ta đang tự loại mình khỏi đường đua.
 

Theo Lê Khắc

VEF.VN


Tái cấu trúc: Xu hướng hay tự vệ sống còn?

Ngày đăng : 05/12/2011 - 9:20 AM

Sau nhiều năm hoạt động, việc nhìn lại mình để có chiến thuật đúng cho những năm tới là điều nên làm không chỉ với những doanh nghiệp thua lỗ mà với cả những doanh nghiệp có ROA ngày càng thấp đi.
 

                         

 

Những tháng gần đây, câu chuyện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, tái cấu trúc nền kinh tế, tái cấu trúc nguồn vốn...được nhắc đến thường xuyên. Câu chuyện tái cấu trúc của các doanh nghiệp niêm yết-dù chưa thành xu hướng-cũng đã trở thành chủ đề được nhiều nhà đầu tư quan tâm.

Xem lại tỷ lệ lợi nhuận ròng được sinh ra từ tài sản (ROA) của các doanh nghiệp niêm yết không khiến nhiều nhà đầu tư giật mình. Những doanh nghiệp lỗ trong những năm qua có tỷ lệ ROA âm là điều dễ thấy nhưng đến gần 240/317 doanh nghiệp trên HoSE và hơn 335/404 doanh nghiệp trên HNX có ROA nhỏ hơn 10% - nhỏ hơn nhiều so với lãi suất gửi tiết kiệm ngân hàng kỳ hạn 1 năm thì là con số mà nhiều doanh nghiệp cần xem lại. Hơn bao giờ hết, trong bối cảnh đói vốn hiện nay, vấn đề chất lượng tài sản càng nên được doanh nghiệp đặt lên đầu.

Tự vệ sống còn, SHC-một doanh nghiệp đã lỗ 2 năm liên tiếp-lên kế hoạch tái cơ cấu công ty. Không chỉ thanh lý một số tài sản không sinh lời để trả nợ vay ngân hàng nhằm cân bằng lại cơ cấu vốn và giảm áp lực tài chính mà SHC còn tìm đối tác chiến lược là ông Nguyễn Xuân Phú - Chủ tịch Công ty Cổ phần Tập đoàn Sunhouse chào bán 1,2 triệu cổ phần tăng vốn. Câu hỏi đặt ra là: Nếu không tái thiết, SHC còn trụ được? Vốn đầu tư chủ sở hữu của SHC là 37,1 tỷ đồng nhưng 2 năm liên tiếp 2009-2010 thua lỗ còn 9 tháng đầu năm lãi không đáng kể, Nguồn Vốn chủ sở hữu cuối quý III/2011 của SHC chỉ còn 6,08 tỷ đồng. Nợ phải trả cuối quý III/2011 là 36,06 tỷ đồng, chiếm 85,55% tổng nguồn vốn. Vay nợ ngân hàng ngắn và dài hạn hơn 13 tỷ đồng. Với khoản nợ này, hàng năm công ty cũng phải trả lãi trên dưới 3 tỷ đồng. Nếu không nhanh chóng tái cơ cấu, câu chuyện âm vốn chủ sở hữu là tương lai có thể đoán định được với SHC.

TLC lỗ 30,41 tỷ đồng năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011 cũng không cải thiện khi lỗ ròng 31,34 tỷ đồng. Thặng dư vốn và các nguồn tích lũy từ trước không đủ bù đắp lỗ chưa phân phối nên lỗ đã bắt đầu ăn dần vào vốn đầu tư của chủ sở hữu. Tuy chưa đến mức như VTA bị âm vốn chủ sở hữu hay SHC chỉ còn 1/6 vốn đầu tư ban đầu nhưng việc vốn chủ sở hữu bắt đầu bị lỗ bắt đầu ăn mòn thì việc tái cơ cấu được tính đến là điều hợp lý. TLC lên kế hoạch tái cấu trúc toàn diện nhân sự, thanh lý hết các tài sản không sinh lời với mục tiêu giảm giá trị tài sản không sinh lời về 0. Điều này, theo chủ quan của người viết, là một chiến lược đúng đắn. Tái cơ cấu để có chất lượng tài sản tốt hơn là điều nên làm.

Các doanh nghiệp vận tải biển sau nhiều năm làm ăn không tốt đã thi nhau lên kế hoạch tái thiết đôi tàu nói riêng và tái cơ cấu tài sản nói chung. Những thông tin bán tàu liên tục được VOS, VFR, VNA... đưa ra. Bán được tàu, một điều dễ hiểu, doanh nghiệp sẽ có nguồn để trả những khoản nợ vay lớn đang đè nặng lên vai do hoạt động đầu tư mua tàu những năm trước đây. Một khi gánh nặng này bớt đi chi phí tài chính bấy lâu nay là nguyên nhân khiến ngành vận tải biến bị lỗ sẽ giảm bớt và doanh nghiệp sẽ đủ nguồn tiền lưu động cho hoạt động kinh doanh của mình.

Tuy không có phương án rõ ràng nhưng SBS những tháng gần đây cũng sôi sục hoạt động tái cơ cấu. Bản giải trình của công ty cho biết thông tin tái cơ cấu có thể là 1 phần nguyên do khiến giá cổ phiếu giảm. Trong hơn 1 tháng, SBS thôi nhiệm 3 nhân sự cấp cao, đóng cửa chi nhánh Sài Gòn...là minh chứng cho sự tái cấu trúc âm thầm mà doanh nghiệp này đang làm.

‘Vác nhẹ sẽ đi nhanh hơn’. Việc tái cấu trúc bằng cắt giảm một phần nhân sự sẽ giúp doanh nghiệp giảm đáng kể chi phí; bán phần tài sản không sinh lãi sẽ giúp chất lượng tài sản tốt hơn và dòng tiền lưu động tốt hơn. Sau nhiều năm hoạt động, việc nhìn lại mình để có chiến thuật đúng cho những năm tới-theo chủ quan của người viết- là điều nên làm không chỉ với những doanh nghiệp thua lỗ mà với cả những doanh nghiệp có mức sinh lãi trên tài sản (ROA) ngày càng thấp đi.

 

Hải An

Theo TTVN
 


Số phận của khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể được định đoạt trong tuần này

Ngày đăng : 05/12/2011 - 9:11 AM

Nếu 27 nước thuộc Liên minh châu Âu không thể thống nhất về biện pháp nào mới thật mạnh tay, có thể xảy ra hàng loạt cuộc bán tháo trái phiếu chính phủ khu vực đồng tiền chung châu Âu.

 


Tuần này, đồng euro bước vào một tuần vô cùng quan trọng khi lãnh đạo các nước thuộc Liên minh châu Âu, với sức ép từ phía Mỹ, cố gắng tìm đến sự đồng thuận về kế hoạch giải cứu để chấm dứt cuộc khủng hoảng nợ công đã khiến châu lục này khốn khổ suốt 2 năm.

Bất chấp sự lạc quan của thị trường về khả năng có một thỏa thuận để chấm dứt khủng hoảng nợ và đảm bảo sự tồn tại của đồng tiền chung, chưa thể nói trước về kết quả của cuộc họp thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo châu Âu vào ngày thứ Năm và thứ Sáu.

Ông Olli Rehn, cao ủy phụ trách vấn đề tiền tệ và kinh tế tại Liên minh châu Âu, nhận xét: “Trong tuần này, tương lai phục hồi của đồng euro và quá trình phục hồi kinh tế tại châu Âu cũng như việc làm tại châu lục này đang đối đầu với nhiều rủi ro. Như vậy, châu Âu cần đến một gói giải pháp mang tính quyết định hơn.”

Nếu mọi diễn biến tiếp theo đúng với kế hoạch của chính phủ Đức và Pháp, đến cuối ngày thứ Sáu, Liên minh châu Âu sẽ có một thỏa thuận tài khóa áp dụng cho 17 nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu.

Vào ngày thứ Năm, Ngân hàng Trung ương châu Âu có thể sẽ hạ lãi suất để ngăn suy thoái kinh tế và đưa ra các biện pháp để mang đến nguồn cung vốn dài hạn cho các ngân hàng châu Âu hiện đang khó khăn.

Ở thời điểm này, các Thủ tướng mới của Italy, Hy Lạp và Tây Ban Nha đã thể hiện cam kết thực thi biện pháp thắt chặt ngân sách và cải cách kinh tế để giải quyết vấn đề nợ và khôi phục niềm tin nhà đầu tư.

Trong tuần qua, thị trường tài chính thế giới tăng điểm nhờ việc kế hoạch tổng thể mà ECB đưa ra phát đi tín hiệu châu Âu sẽ tiếp tục hành động quyết liệt ngăn khủng hoảng.

Các nhà hoạch định chính sách kinh tế châu Âu sẵn sàng bảo vệ đồng USD và ngăn khủng hoảng thông qua sự hợp tác của các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu. ECB có thể đưa ra nhiều biện pháp để hỗ trợ cho trái phiếu chính phủ Italy và Tây Ban Nha.

Tuy nhiên nếu 27 nước thuộc Liên minh châu Âu không thể thống nhất hoặc đưa ra thêm được biện pháp nào mới thật mạnh tay, có thể xảy ra hàng loạt cuộc bán tháo trái phiếu chính phủ khu vực đồng tiền chung châu Âu, niềm tin đi xuống và khủng hoảng sẽ trở nên tồi tệ vào tháng 1/2011.

 

 

 

Minh Ngọc

Theo TTVN



 


Hạ lãi suất: Mấy phần trăm và thời điểm nào?

Ngày đăng : 04/12/2011 - 12:00 AM

Thời gian tới, người dân và các doanh nghiệp có thể chứng kiến những thay đổi về lãi suất - có tính ảnh hưởng bước ngoặt đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012 và có thể cả năm 2013.

 

 

Lửa và khói

Tục ngữ dân gian "Không có lửa làm sao có khói" lại được ứng nghiệm khi liên quan đến tin đồn về hạ lãi suất.

Lãi suất có vai trò gần giống như một dạng van tim trong hệ thống huyết mạch ngân hàng. Từ van tim đó, máu được lưu chuyển ra toàn bộ cơ thể - tác động đến nhận thức và hành vi của đại đa số chủ thể trong xã hội.

Ngày cuối cùng của tháng 11 vừa qua đã đánh dấu sự khởi phát của tin đồn trên. Chắc chắn sự đồn đoán này có liên quan đến những cơ sở khá chắc chắn, được cấu thành từ buổi trả lời chất vấn Quốc hội của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình và cả những tin tức... hành lang.

Nếu lạm phát tiếp tục dưới 1% thì sẽ có điều kiện để xem xét giảm lãi suất... Lời khẳng định ấy gần giống như một mệnh đề. Cho đến giờ, đã có thể kết luận là lạm phát năm nay đã lập đỉnh vào tháng 8. Còn từ tháng 8 đến nay, chỉ số CPI luôn nằm dưới mức 1%. Thậm chí trong hai tháng 10 và 11, chỉ số này còn không vượt quá 0,5%.

Tháng 12 cũng được dự báo khá khả quan về chỉ số giá tiêu dùng: 0,5-0,6%. Như vậy từ tháng 8 đến cuối năm, CPI chỉ tăng thêm khoảng 3-3,5%. Điều đó cũng có nghĩa là những khách hàng đã gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng theo lãi suất trần huy động 14% từ tháng 9 là không thể bị âm, còn khách hàng nào được gửi theo lãi suất thỏa thuận 19-20% vào trước tháng 9 thì đã lãi gần ngang ngửa với kênh đầu tư vàng.

Vậy đã đủ điều kiện cần để giảm lãi suất? Hay còn phải chờ đợi thêm yếu tố nào nữa?

Câu chuyện mà trên hết là khách hàng gửi tiền và kế sau là các nhà đầu tư cá nhân và doanh nghiệp đang hết sức quan tâm đang là khi nào khói sẽ biến thành lửa, cũng như "đống lửa" sẽ tỏa cháy với nhiệt lượng ra sao.

Tất nhiên một cơ quan trọng yếu và rất nhạy cảm như Ngân hàng nhà nước không thể chung sống với các loại tin đồn. Cũng bởi thế đã có sự khẳng định từ một cấp của cơ quan này về việc "Ngân hàng Nhà nước chưa có chủ trương hạ lãi suất vào lúc này".

Chi tiết đáng ghi nhận là phản hồi trên của Ngân hàng Nhà nước xuất hiện vào ngày 1/12, tức chỉ sau dư luận "khói lửa" đúng một ngày. Động thái phản hồi này - xét ra là khá nhanh chóng nếu so với lời cảnh báo cũng của Ngân hàng Nhà nước về nạn đầu cơ giá vàng khi vào tháng 9/2011, giá vàng trong nước bị đẩy lên cao đột ngột, chênh với giá thế giới đến 4-5 triệu đồng/lượng. Khi đó, lời cảnh báo của Ngân hàng Nhà nước đã chỉ xuất hiện sau khi giới đầu cơ kịp tiêu thụ một lượng vàng khổng lồ giá cao cho khối khách hàng cá nhân.

Nhưng mặc dù có phản hồi không chính thức từ phía cơ quan quản lý về việc chưa hạ lãi suất, rất nhiều thông tin từ cuộc họp báo của Văn phòng Chính phủ, diễn ra sau phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào cuối tháng 11/2011, đã lại cho thấy sự khẳng định về hạ lãi suất còn xuất phát từ cấp cao hơn.

Chỉ có điều, và đây cũng là một chi tiết rất đáng lưu tâm, Văn phòng Chính phủ cho biết lãi suất hạ bao nhiêu và vào thời điểm nào là do Ngân hàng Nhà nước quyết định.

Vậy Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm lãi suất mấy phần trăm và vào thời điểm nào?

Mấy phần trăm?

Có những phương án đã được các chuyên gia trong Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ chính phủ và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia bàn thảo trước đây. Theo đó, mức lãi suất huy động có thể hạ dần: hoặc 13%, hoặc 12%, hoặc 11%, hoặc 10%.

Thậm chí, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) từ tháng 9/2011 còn kiến nghị đưa mức lãi suất huy động về 10% ngay trong năm 2011.

Tuy nhiên, 10% có lẽ là một tỷ lệ không sát lắm với thực tế, khi vào tháng 9 chỉ số lạm phát mới bắt đầu giảm, còn trong tháng 12 chỉ số CPI lại đang có chiều hướng tăng nhẹ.

Vậy nên khoảng dao động từ 11-13% của lãi suất huy động sẽ mang tính hợp lý hơn.

Một tín hiệu cũng đáng theo dõi là từ đầu tháng 12/2011, Ngân hàng BIDV đã tiếp tục hạ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp được ưu tiên. Mức hạ này là 2%.

Cách đây đúng 3 tháng, cũng BIDV đã trở thành ngân hàng đầu tiên hưởng ứng nhiệt tình chủ trương kéo giảm lãi suất cho vay của Ngân hàng nhà nước về vùng 17-19%, thậm chí BIDV còn khởi động lại cơ chế cho vay đối với những lĩnh vực quá nhạy cảm như chứng khoán và bất động sản.

Mức hạ 2% của BIDV vào đầu tháng 12 khiến những người quan tâm liên tưởng đến con số "chẵn" - cũng là một đặc thù trong tâm lý của người Việt Nam. Liệu có phải do ngẫu nhiên mà đa số kiến nghị của các chuyên gia và tổ chức đã tập trung vào tính "chẵn" hơn là "lẻ" của mức hạ lãi suất? Liệu có phải là vô tình khi những lời đồn đoán xuất hiện trong thời gian qua đều hướng về tỷ lệ hạ lãi suất 12% chứ không phải là một tỷ lệ nào khác?

Vì thế, và cùng với một số nguồn thông tin không chính thức, khả năng lãi suất huy động được kéo giảm ở mức 12% đang là phương án số một.

Thậm chí, không loại trừ một khả năng khác - đã từng được bàn thảo rôm rả từ giữa năm nay - sẽ được tiến hành: áp trần lãi suất cho vay.

Thời điểm nào?

Mặt khác, cũng cần lưu ý là BIDV, khi trở thành nhân vật tiên phong trong chiến dịch hạ lãi suất cho vay vào tháng 9/2011, đã xúc tiến chiến chiến dịch này ngay trước khi Ngân hàng Nhà nước ban hành chỉ thị 02 về tái thiết lập trần lãi suất huy động 14%.

Do đó, việc BIDV hạ lãi suất cho vay thêm 2% vào đầu tháng 12 hẳn phải tạo nên tính cảm nhận về thời điểm Ngân hàng nhà nước xúc tiến hạ lãi suất huy động dưới 14% sẽ diễn ra trong ít ngày tới của tháng 12/2011.

Tuy nhiên, cơ chế hạ lãi suất huy động lần này cũng lồng trong bối cảnh khác hơn nhiều so với thời điểm tháng 9/2011. Lần này, một số giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô chắc chắn sẽ được Chính phủ đưa ra, trong đó chủ yếu liên quan đến hai công cụ chính là giảm lãi suất và miễn giảm thuế thu nhập cá nhân.

Trong phiên họp thường kỳ tháng 11 vừa qua, Chính phủ đã nhắc lại một cụm từ làm gợi nhớ lại bối cảnh cuối năm 2008 - đầu năm 2009: ngăn chặn suy giảm kinh tế. Đồng thời, trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã được Quốc hội thông qua, Chính phủ sẽ ban hành một nghị quyết về nhiều vấn đề ổn định và phát triển kinh tế - xã hội cho năm tới.

Như vậy, cơ chế hạ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước không phải sẽ được thực hiện một cách độc lập, mà gắn liền với nghị quyết sắp tới của Chính phủ.

Thông thường, nghị quyết dự kiến của Chính phủ được ban hành vào khoảng ngày 10 đầu tháng. Nếu mọi chuyện vẫn diễn ra theo đúng "quy luật" - sự vận động về thời điểm của những văn bản hành chính quan trọng tính từ năm 2008 đến nay, thời điểm mà Ngân hàng nhà nước quyết định hạ lãi suất sẽ xảy ra trước hoặc sau nghị quyết này vài ba ngày.

Tức trong khoảng thời gian từ ngày 7-15/12 năm nay, người dân và các doanh nghiệp có thể chứng kiến những thay đổi ở mức độ vừa phải nhưng có tính ảnh hưởng bước ngoặt đối với vận mạng nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012 và có thể cả năm 2013.

 

Trường Sơn

 VEF


 


Trung Quốc góp sức làm dịu căng thẳng thanh khoản toàn cầu

Ngày đăng : 04/12/2011 - 12:00 AM

Số liệu thống kê sơ bộ cho thấy tháng 10 vừa qua là tháng đầu tiên kể từ năm 2008 xảy ra tình trạng dòng vốn chảy ra khỏi Trung Quốc.

 

                              

 

Khi các ngân hàng trung ương chủ chốt thế giới vội vã công bố các biện pháp nhằm làm dịu bớt sự căng thẳng trên các thị trường vốn toàn cầu, Trung Quốc cảm thấy không thể đứng ngoài cuộc và Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBoC) đã sớm có động thái nới lỏng chính sách tiền tệ tương tự như hồi tháng 10/2008 - đó là hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại lần đầu tiên trong gần 3 năm qua. Đối với Trung Quốc đây là cơ hội thể hiện vai trò tham gia ngày càng lớn của họ vào việc hoạch định chính sách toàn cầu và ổn định các thị trường quốc tế, từ đó thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc.

 

Theo nhà kinh tế độc lập Andy Xie, thời điểm Trung Quốc nới lỏng chính sách tiền tệ sớm hơn dự đoán và chính nỗ lực phối hợp của 6 ngân trung ương chủ chốt toàn cầu nhằm tăng khả thanh khoản cho các ngân hàng thương mại đã thôi thúc Trung Quốc có hành động nhanh như thế. Cuối cùng Trung Quốc phải hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, lạm phát dịu bớt và đáng lo ngại hơn là tình trạng chảy vốn tăng mạnh.

 

Trong đợt khảo sát mới đây của Reuters, các nhà kinh tế dự báo Trung Quốc sẽ có đợt hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đầu tiên vào tháng 12 với mức cắt giảm khoảng 200 điểm cơ bản xuyên suốt năm 2012 từ mức đỉnh 21,5% hiện nay nhưng đợt cắt giảm bất ngờ hôm 30/11 đã điều chỉnh đáng kể dự báo đó.

 

Nhà kinh tế cao cấp Kevin Lai từ Daiwa Capital Markets tại Hồng Công dự đoán năm 2012 Trung Quốc sẽ cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 200 điểm cơ bản nhằm ngăn chặn nền kinh tế hạ cánh khó khăn hơn là thúc đẩy một đợt bùng nổ kinh tế nữa. Các nhà kinh tế từ HSBC dự đoán Trung Quốc sẽ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 150 điểm cơ bản ngay trong nửa đầu năm tới.

 

Nhìn chung, việc nới lỏng tiền tệ trở nên cấp bách bởi lo ngại các thị trường cấp vốn toàn cầu đang cạn kiệt và các ngân hàng vướng vào cuộc khủng hoảng nợ công Eurozone vội vã bán tài sản và cắt giảm cho vay. Các thị trường tiền tệ đang bị thắt chặt như từng xảy ra trong vài tuần sau khi Ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ năm 2008. Đối với Trung Quốc nguy cơ chảy vốn nhiều hơn có thể gây thêm căng thẳng trên các thị trường tín dụng vốn đã bị thắt chặt. Đó chính là lý do chính khiến Trung Quốc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc lần đầu tiên trong gần 3 năm qua.

 

Số liệu thống kê sơ bộ cho thấy tháng 10 vừa qua là tháng đầu tiên kể từ năm 2008 xảy ra tình trạng dòng vốn chảy ra khỏi Trung Quốc. Trung Quốc phải cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nếu muốn giữ nguồn cung tiền ổn định khi tiền gửi tại ngân hàng giảm và thặng dư thương mại bị thu hẹp.

 

Lạm phát của Trung Quốc đã hạ xuống 5,5% vào tháng 10, từ mức đỉnh cao trong ba năm hồi tháng 7, nhưng lãi suất tiền gửi một năm chỉ ở mức 3,5%, tức là người gửi tiền thực nhận lãi suất âm. Do đó bất cứ động thái cắt giảm lãi suất nào cũng có thể làm gia tăng dòng tiền tiết kiệm chuyển hướng sang các sản phẩm tài sản sinh lợi cao hơn hoặc thậm chí là thị trường tín dụng đen mà nhà nước đang tìm cách kiểm soát.

 

PBoC đã 12 lần nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại trong giai đoạn 1/2010- 6/2011, đồng thời liên tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng cũng như lựa chọn cho vay đối với một số doanh nghiệp nhỏ khát vốn.

 

 

NDHmoney.vn

 


 

Tin mới cập nhật