Chủ tịch nước: 'Năm 2020, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp'

Ngày đăng : 26/12/2011 - 6:10 PM

Gặp gỡ đại diện doanh nhân trẻ nhân dịp cuối năm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mong muốn các DN tạo được nhiều thương hiệu ở tầm khu vực, góp phần cho mục tiêu cơ bản công nghiệp hóa vào năm 2020.

 

Chia sẻ trong buổi gặp gỡ đại biểu Hội doanh nhân trẻ sáng 26/12, Chủ tịch nước Trương Tấn sang nhắc nhở cộng đồng doanh nghiệp về thời hạn 9 năm còn lại là rất gấp rút để Việt Nam hoàn thành giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hóa.

Nhận định hầu hết thế hệ doanh nhân - doanh nghiệp trẻ hiện nay đều nóng lòng chấn hưng đất nước nhưng Chủ tịch nước cũng thừa nhận tiềm lực vốn của các công ty Việt Nam vẫn còn thua kém rất nhiều so với các đối thủ trong khu vực. Do đó, các doanh nghiệp cần đặt mục tiêu vừa sức để phấn đấu.

"Đạt được quy mô châu lục hay toàn cầu thì khó bởi một tập đoàn như vậy giờ cũng phải có quy mô tối thiểu 50 tỷ USD. Nhưng tôi mong rằng trong vòng 5 - 10 năm tới, Việt Nam sẽ tạo được những thương hiệu mang tầm khu vực", ông chia sẻ.

Cũng theo Chủ tịch nước, ngay cả những doanh nghiệp lớn nhất nước như Tập đoàn Dầu khí (PVN), tổng tài sản hiện cũng chỉ ở mức 20 tỷ USD. So với những doanh nghiệp ra đời cùng thời điểm như Petronas của Malaysia, quy mô của PVN chỉ bằng một phần ba.

"Tuy vậy, Nhà nước cũng luôn động viên doanh nghiệp mở rộng sản xuất, vươn tới tầm khu vực. Chẳng hạn như Vietnam Airlines thì cố gắng đến 2015 có quy mô ngang ngửa Thai Airways. Các doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp tư nhân cũng vậy", Chủ tịch nước nói.

Về số lượng doanh nghiệp, Chủ tịch nước cho biết Việt Nam hiện có khoảng 500.000. Tuy nhiên, đến 2015, con số này phải đạt khoảng 1,2 - 1,3 triệu. Đến 2020, tuy chưa có số liệu dự báo chính thức, nhưng Chủ tịch nước cho rằng ít nhất phải có 1,8 - 2 triệu doanh nghiệp để đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để làm được điều này, Chủ tịch nước yêu cầu các doanh nhân cần phát huy hơn nữa những thành tích đạt được, đồng thời nhận thức đầy đủ hơn nữa về quá trình toàn cầu hóa, chú trọng hơn nữa vào các đặc điểm của doanh nghiệp trong thời kỳ mới như đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau... Nhà nước và Chính phủ sẽ có những biện pháp hỗ trợ, thúc đẩy mạnh hơn nữa, giúp doanh nghiệp phát triển.

Thay mặt cộng đồng doanh nghiệp, nhiều doanh nhân đã phát biểu, tiếp thu ý kiến của Chủ tịch nước. Theo ông Lê Vĩnh Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Sơn Hà, mặc dù doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều thương hiệu mà tầm quốc gia, quốc tế như Cà phê Trung Nguyên, FPT, Trường Hải... nhưng tiềm lực nói chung vẫn còn ở mức khiêm tốn.

Trong khi đó, theo Chủ tịch Tập đoàn Hanaka - Mẫn Ngọc Anh, để phát triển hơn nữa trong giai đoạn mới, đúng như nhận xét của Chủ tịch nước, doanh nghiệp Việt Nam cần phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết và đầu tư mạnh cho khoa học kỹ thuật.

Các doanh nhân cũng hứa với Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ cố gắng chèo lái doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, góp phần vào mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.

 

 

Theo Nhật Minh
VnExpress

 

Họ tên :

Email :

Nội dung :

Tin cùng chủ đề

Nợ công cuối 2011 ước đạt 54,6% GDP

Ngày đăng : 26/12/2011 - 6:05 PM

Theo Bộ Tài chính, năm 2011, chi trả nợ tăng thêm 15.000 tỷ đồng so với dự toán đã khiến dư nợ công giảm trên 1 điểm % GDP.

 

 

Theo báo cáo đánh giá thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách Nhà nước năm 2011 của Bộ Tài chính, năm 2011, tổng thu và viện trợ cả năm ước đạt 674.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán, tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010.

Đặc biệt, thu từ dầu thô 2011 ước đạt 100.000 tỷ đồng, vượt 44,3% so với dự toán, tăng 44,6% so với thực hiện năm 2010.

Nguyên nhân chủ yếu do yếu tố giá dầu thanh toán bình quân cả năm tăng thêm khoảng 25 USD/thùng so giá xây dựng dự toán; sản lượng thanh toán theo ước tính của Tập đoàn Dầu khí  đạt 14,13 triệu tấn, tăng 0,11 triệu tấn so kế hoạch.

Về chi ngân sách, cả năm con số này ước đạt 796.000 tỷ  đồng, tăng 9,7% so với dự toán. Trong đó, chi trả nợ và viện trợ ước đạt 101.000 tỷ đồng, tăng 17,4% (15.000 tỷ đồng) so với dự toán nhằm thanh toán các khoản nợ đã cam kết và hoàn trả một phần các khoản vay ngắn hạn.

Như vậy, bội chi ngân sách năm 2011 ước đạt 121.500 tỷ đồng, bằng 4,9% GDP, giảm 0,4% GDP so với dự toán Quốc hội quyết định.

Ngoài ra, tính đến 31/12/2011, Bộ Tài chính dự kiến nợ công là 54,6% GDP, nợ Chính phủ 43,6% GDP và nợ quốc gia là 41,5% GDP. Trong đó, tăng chi trả nợ năm 2011 thêm 15.000 tỷ đồng so với dự toán đã khiến dư nợ công giảm trên 1% GDP.

Trước đó, theo Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2010, nợ công của Việt Nam chiếm 56,7% GDP, nợ của Chính phủ chiếm 31,1% GDP và tổng dư nợ nước ngoài chiếm 42,2% GDP.

 

Theo Bộ Tài chính


 


Tăng thu nhờ chống thất thu

Ngày đăng : 26/12/2011 - 11:06 AM

Nhờ tích cực chống thất thu và nợ đọng thuế, nên thu ngân sách cả năm 2011 vẫn đạt 647.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán, tăng 20,6% so với năm 2010.

 

 

 Mở đầu Báo cáo Đánh giá thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách năm 2011, Bộ Tài chính đã đề cập công tác quản lý, kiểm tra, giám sát chống thất thu thuế; đấu tranh chống chuyển giá, nhất là đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), các khoản thu liên quan đến đất đai, kinh doanh bất động sản, tài nguyên khoáng sản và thuế xuất-nhập khẩu. Đây được coi là một trong những thành công đáng ghi nhận nhất trong năm 2011 của ngành tài chính.

Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2011, ngành thuế đã thu hồi 67% số nợ thuế năm 2010 chuyển sang, với tổng số tiền lên tới 18.039 tỷ đồng, ngành hải quan đã xử lý thu trên 709 tỷ đồng tiền nợ thuế.

Thành công nổi bật thứ 2 trong công tác điều hành tài chính - ngân sách năm 2011 là cơ cấu chi khá tích cực.

Cụ thể, thay vì “ưu tiên” chi thường xuyên như những năm trước đây, năm 2011 tập trung chi cho đầu tư phát triển (đạt 175.000 tỷ đồng, tăng hơn 15% so với dự toán); chi trả nợ và viện trợ (đạt 101.000 tỷ đồng, tăng 17,4% so với dự toán) để kịp thời thanh toán các khoản nợ đã cam kết và hoàn trả một phần các khoản nợ vay ngắn hạn để giảm áp lực bố trí trả nợ của các năm sau.

Giảm nợ công, giảm bội chi là thành công đáng kể thứ ba của ngành tài chính trong năm 2011.

Mặc dù vậy, thu ngân sách vẫn còn tình trạng thất thu, nhất là các khoản thu từ đất đai, kinh doanh bất động sản, khai thác tài nguyên khoáng sản, khu vực ngoài quốc doanh và thu từ doanh nghiệp FDI. Gian lận thương mại, chuyển giá, trốn thuế vẫn diễn ra phổ biến, nhất là ở các trung tâm kinh tế. Công tác quản lý thu thuế có nơi, có lúc còn bị buông lỏng dẫn tới nợ đọng thuế vẫn phát sinh, việc truy thu số thuế nợ đọng vẫn còn hạn chế...

 Năm 2012, ngành tài chính lường trước rất rõ những khó khăn trong việc bảo đảm cân đối thu - chi, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội… Vì vậy, 10 nhóm giải pháp, với 30 giải pháp cụ thể đã được đặt ra.

Ngoài việc tiếp tục thực hiện các giải pháp để chống thất thu, bảo đảm thu tăng từ 5 đến 8% so với dự toán của Quốc hội, kiềm chế lạm phát… năm 2012,  ngành tài chính đặt trọng tâm vào việc hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công; thúc đẩy tái cấu trúc lại khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN)...

“Phải thực hiện đổi mới căn bản cơ chế tài chính đối với các lĩnh vực sự nghiệp công theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị về cả tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính, gắn với lộ trình xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ, giảm dần tình trạng cơ quan chủ quản can thiệp quá sâu vào hoạt động của đơn vị sự nghiệp công”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ nhấn mạnh.

Đối với nhóm nhiệm vụ tái cấu trúc lại DNNN, Bộ Tài chính đã lên kế hoạch xây dựng, ban hành tiêu chí phân loại DNNN để làm căn cứ xác định cơ cấu sở hữu vốn cho từng loại DNNN; trên cơ sở phân loại, thực hiện đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, giao bán khoán cho thuê và giải thể.

“Trong năm 2012, bên cạnh việc rà soát, phân loại, đẩy nhanh cổ phần hóa sẽ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhất là với các DN xăng dầu, than, điện... để xác định đúng lãi - lỗ, thúc đẩy công khai,

minh bạch. Đồng thời, yêu cầu DN kinh doanh các mặt hàng này phải tiết giảm 5-10% chi phí quản lý, từ đó giảm giá thành sản phẩm”, ông Huệ cho biết,

 

Theo Mạnh Bôn

 Báo Đầu tư


 


Lạm phát vẫn "làm khó" doanh nghiệp

Ngày đăng : 26/12/2011 - 11:04 AM

Lạm phát năm 2011 đã chốt ở con số 18,13%, không bất ngờ, nhưng thuộc diện rất cao. Câu hỏi đặt ra là, mức lạm phát này có "làm khó" doanh nghiệp?

 

Thực ra, không khó để đưa ra câu trả lời. Cả năm qua, doanh nghiệp (DN) đã "vật vã" vì lạm phát, vì giá đầu vào tăng cao. Con số khoảng 10% DN phải giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2011 là minh chứng rõ nét cho điều đó.

Thậm chí, không chỉ DN than vãn, mà lãnh đạo các tỉnh cũng đã phải "kêu thay" cho DN của địa phương khi phát biểu tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2012, diễn ra cuối tuần qua tại Hà Nội. Các ông Dương Anh Điền, Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng; Lê Thanh Cung, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương; Trịnh Văn Chiến, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa… đều có câu nói giống nhau là: "DN đang rất khó khăn".

Và không hề giấu giếm nỗi lo lắng của mình, ông Hoàng Dân Mạc, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ quan ngại: "Năm 2011, với lãi suất và giá đầu vào tăng cao, nhiều DN nhỏ và vừa của tỉnh đã không chống đỡ được. Nếu tình trạng vẫn tiếp tục thì không hiểu DN sẽ xoay xở ra sao?".

Trong khi đó, ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội thẳng thắn đề nghị, cần có lộ trình để giảm lãi suất cho vay, bởi với mức lãi suất như hiện nay, DN rất khó khăn và điều này sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, việc làm và an sinh xã hội.

Mặc dù Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đã khẳng định, mục tiêu của Ngân hàng là sẽ đưa lãi suất huy động về mức 10% trong năm 2012, song rõ ràng, nỗ lực này còn bị chi phối bởi diễn biến lạm phát. Năm 2011, những bình luận về việc lạm phát "làm khó" lãi suất đã không ít lần được đưa ra.

Thông điệp phát đi từ Chính phủ cho thấy, năm tới, mục tiêu hàng đầu vẫn là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng đã nhắc tới mục tiêu giữ lạm phát ở mức 9%. Tuy nhiên, diễn biến trong thực tế thế nào, thì còn phải chờ 12 tháng tiếp theo.

Tháng 12/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ tăng 0,53% so với tháng trước. Đây là mức tăng tương đối thấp so với mức tăng của các tháng 12 trong 5 năm trở lại đây.

Theo đó, ngoại trừ năm 2008 (năm có suy giảm kinh tế, CPI tháng 12 giảm 0,68% so với tháng trước đó), thì tháng 12 các năm từ năm 2005 trở lại đây lần lượt tăng 0,5%; 2,91%; 1,38% và 1,98%.

Con số này được cho là rất tích cực, phản ánh kết quả rõ nét của Nghị quyết 11/NQ-CP về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Xu hướng giảm tốc của CPI những tháng gần đây là cơ sở để kỳ vọng, lạm phát năm 2012 sẽ không quá căng thẳng.

Tuy vậy, cũng phải thấy rằng, chưa thể vội chủ quan với lạm phát. Chính Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định điều này.

Còn Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng thừa nhận, lạm phát cao "vẫn đang rình rập". Một chuyên gia tài chính - ngân hàng thì cho rằng, nếu như tốc độ tăng CPI trong những tháng đầu năm tới không ở mức dưới 1%, thì khó có thể hạ trần lãi suất huy động. Điều đó có nghĩa rằng, DN sẽ tiếp tục chịu lãi suất vay vốn rất cao.

Thực tế cho thấy, những tháng gần đây, DN đã dễ thở hơn với lãi suất ngân hàng. Nhưng một khảo sát mới công bố cho thấy, một số lượng lớn DN phải vay vốn với lãi suất trên 18% - mức lãi suất quá cao. Chính vậy, mối quan ngại lớn nhất của DN trong năm tới vẫn là khó tiếp cận vốn vay và lợi nhuận giảm.

 


Theo Báo đầu tư

 


Tăng trưởng GDP 2011 ước đạt 6%

Ngày đăng : 26/12/2011 - 11:00 AM

Cán cân thanh toán tổng thể năm 2011 ước thặng dư khoảng 2,5 tỷ USD, so với mức thâm hụt 3,07 tỷ USD của năm 2010.

 

Kết thúc năm 2011 với nhiều khó khăn thách thức từ diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới cũng như những thiệt hại do hậu quả của thiên tai, nhưng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, đảm bảo an sinh xã hội...

Trong đó, tăng trưởng GDP đạt khoảng 6%, chỉ số giá tiêu dùng cả năm là 18,13% là một cố gắng vượt bậc.

Tăng trưởng trong khó khăn

Có thể khẳng định, việc tập trung thực hiện các giải pháp chính sách đề ra trong hai Nghị quyết 02/NQ-CP và 11/NQ-CP đã góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Tại Hội nghị với các địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2012, đánh giá về tình hình kinh tế-xã hội năm 2011, lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành và các địa phương đều khẳng định thành công trong năm 2011 là Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát, cơ bản giữ được ổn định kinh tế vĩ mô gắn với đó là duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội.

Gắn với kiềm chế lạm phát trong năm 2011, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh thu ngân sách Nhà nước, do vậy số thu vượt 13,4% so với dự toán, tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010 đã góp phần giảm bội chi ngân sách Nhà nước xuống còn khoảng 4,9%, đồng thời kiểm soát nợ công nhằm đảm bảo an toàn an ninh tài chính quốc gia.

Cũng nhờ thực hiện các giải pháp đồng bộ và quyết liệt, Việt Nam đã kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng ở mức thấp hơn đáng kể so với chỉ tiêu của Chính phủ đề ra trong Nghị quyết 11. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã giám sát việc bảo đảm các tỷ lệ an toàn trong hoạt động cũng như tình hình thanh khoản của các tổ chức tín dụng; xử lý nghiêm các vi phạm vượt trần lãi suất, buôn bán ngoại tệ. Do vậy, thị trường ngoại tệ và tỷ giá ngoại tệ từng bước ổn định.

Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, phù hợp với sự chỉ đạo của Chính phủ, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển. Trạng thái ngoại hối của các ngân hàng được cải thiện. Dự trữ ngoại hối đã tăng từ 3,5 tuần nhập khẩu trong quý 1/2011 lên khoảng 7,5 tuần nhập khẩu vào quý 3/2011.

Bên cạnh đó, chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới giảm đáng kể mặc dù giá vàng thế giới vẫn ở mức cao. Các quy định về tín dụng, ngân hàng được rà soát, sửa đổi theo hướng an toàn và chặt chẽ hơn để chuẩn bị cho thực hiện Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại theo hướng an toàn và bền vững.

Một điểm nhấn nữa của năm 2011 là Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP khoảng 6%, đây là mức tăng khá cao trong điều kiện phải tập trung kiềm chế lạm phát. Theo đó, ngành nông nghiệp đạt mức kỷ lục về sản lượng lương thực (42,2 triệu tấn), tăng 2,2 triệu tấn so với năm 2010, tạo điều kiện bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội ở nông thôn và cả nước, tăng xuất khẩu và nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả năm tăng khoảng 24%. Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 96 tỷ USD, tăng 33% so với năm 2010 và cao gấp hơn 3 lần chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 10%. Tỷ lệ nhập siêu bằng khoảng 10,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu được Quốc hội thông qua là không quá 18% cũng như mục tiêu đề ra trong nghị quyết 11 là không quá 16%. Cán cân thanh toán tổng thể năm 2011 ước thặng dư khoảng 2,5 tỷ USD, cải thiện đáng kể so với mức thâm hụt 3,07 tỷ USD của năm 2010.

Đặc biệt, thực hiện giảm tổng cầu, kiềm chế lạm phát, thắt chặt và nâng cao hiệu quả đầu tư công, các cấp, các ngành đã đồng loạt các giải pháp cắt giảm 81.500 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển của Nhà nước để điều chuyển cho các dự án hoàn thành, cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ. Nhờ vậy, số dự án hoàn thành trong năm nay đã tăng thêm 1.053 dự án trong khoảng 4.400 dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng của năm 2011.

Những điểm nhấn trên một lần nữa khẳng định các giải pháp chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội đề ra trong Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 59/2011/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết 02, 11 của Chính phủ là phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Qua đây cũng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trước những khó khăn, thách thức hiện nay. Đồng thời, khẳng định có được Bức tranh kinh tế sáng sủa trên là thành quả của sự đồng tâm, hiệp lực cả hệ thống chính trị.

Tạo đà cho năm 2012

Lạm phát mặc dù được kiểm soát nhưng vẫn còn ở mức cao, kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, lãi suất cho vay ở mức cao gây khó khăn cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, kênh huy động vốn lớn cho nền kinh tế giảm sút... là những khó khăn và thách thức để thực hiện các mục tiêu của năm 2012 nếu như không tiếp tục các giải pháp một cách đồng bộ và quyết liệt.

Do vậy, mục tiêu của năm 2012 được Chính phủ đưa ra là tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức 6% và nếu điều kiện thuận lợi là 6,5% gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế…. Động lực để tạo đà cho năm 2012 đó chính là thực hiện toàn diện, lâu dài và có hiệu quả các giải pháp để tái cấu trúc toàn nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; trong đó tập trung vào tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại.

Để hoàn thành mục tiêu trên, Chính phủ đề ra 7 nhóm giải pháp lớn, trong đó xác định kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô là nhiệm vụ trọng tâm, được ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo điều hành nhằm tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, tạo đà phát triển vững chắc cho năm 2012 và các năm tiếp theo. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục thực hiện quyết liệt một cách đồng bộ, hệ thống các giải pháp về tiền tệ, tài khóa, giá cả, thị trường và kiểm soát nhập siêu.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh việc kiềm chế lạm phát trước hết phải thực hiện hiệu quả các giải pháp trong gói chính sách tiền tệ; làm tốt công tác quản lý giá; không để mất cân đối về cung cầu hàng hóa, đồng thời chú trọng bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu tại các thời điểm và địa bàn nhạy cảm... Chính phủ sẽ chỉ đạo quyết liệt các giải pháp hạn chế nhập siêu, kiểm soát nhập siêu khoảng 10% (bằng năm 2011).

Bên cạnh đó, giảm nhập siêu bằng đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không phải là thiết yếu và nâng cao chất lượng các sản phẩm hàng hóa sản xuất trong nước…. Mặt khác, giữ vững sự ổn định tỷ giá, giảm dần lãi suất ngân hàng phù hợp với đà giảm dần của lạm phát. “Nếu không kiểm soát được lạm phát sẽ không thể giữ được ổn định kinh tế vĩ mô”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói.

Chính phủ cũng yêu cầu các ngành, các cấp tập trung chỉ đạo quyết liệt các giải pháp trong các Nghị quyết 02 và 11 một cách đồng bộ, hiệu quả và có hệ thống; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng để tạo đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong việc triển khai thực hiện. Ngoài ra, các bộ, ngành, địa phương cần đặc biệt quan tâm chia sẻ, sát cánh trong tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Về việc thực hiện các giải pháp mang tính đột phá trong tái cấu trúc kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, Chính phủ xác định năm 2012 là năm bản lề. Trong bối cảnh nền kinh tế đang bộc lộ nhiều điểm yếu, đây là đề án mang nhiều kỳ vọng lớn lao. Để đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ trong triển khai thực hiện các nội dung, giải pháp tái cơ cấu kinh tế ngay từ đầu năm 2012, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện, báo cáo Quốc hội đề án tái cơ cấu nền kinh tế trong kỳ họp tới.

Song song với đó, chậm nhất trong quý 1/2012, các bộ quản lý ngành, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố có liên quan, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước phải hoàn thành phương án sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý; đồng thời, chỉ đạo và tổ chức triển khai ngay các giải pháp theo quy mô và tiến độ được phê duyệt.

Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương quyết liệt chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triền kinh tế-xã hội ngay từ ngày đầu, tháng đầu của năm 2012; đồng thời theo dõi sát diễn biến tình hình, kịp thời cập nhật tình hình để có những phản ứng chính sách phù hợp nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, nội lực của mỗi ngành, địa phương trong thực hiện các mục tiêu phát triển.

Trước mắt, các bộ, ngành, địa phương chú trọng tới công tác kiểm soát giá cả, thị trường; chống hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, tình trạng đầu cơ, tăng giá bất hợp lý, bất hợp pháp; thực hiện chính sách bình ổn giá… đảm bảo cho nhân dân đón Tết cổ truyền dân tộc an toàn và đầm ấm.

 

Theo Mai Phương

 Vietnamplus

 


 


Năm 2011: Nhập siêu giảm, chưa vội mừng

Ngày đăng : 26/12/2011 - 10:56 AM

Nhập khẩu năm 2011 giảm mạnh so với chỉ tiêu Quốc hội đặt ra

 

 

Tại hội thảo “Thế giới và Việt Nam - Dự báo năm 2012” mới đây, các chuyên gia kinh tế đã “mổ xẻ” hiện tượng giảm mạnh nhập siêu của Việt Nam trong năm 2011, theo xu hướng không coi đây là điểm sáng trong bức tranh kinh tế.

Dấu hiệu giảm xuất khẩu

TS Phạm Tất Thắng, Viện Nghiên cứu Thương mại Việt Nam, cho rằng con số nhập siêu bằng 11% kim ngạch xuất khẩu là dấu hiệu tốt. Đây là mức giảm rất mạnh sau nhiều năm kỳ vọng đưa nhập siêu về mức dưới 20% đều không đạt.

Kết quả này cũng thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong nỗ lực giảm nhập siêu, nhưng cũng đồng thời báo hiệu khó khăn cho sản xuất hàng xuất khẩu vào năm 2012. Để làm hàng xuất khẩu, doanh nghiệp (DN) phải nhập khẩu nguyên phụ liệu, nay nhập khẩu giảm đồng nghĩa với giảm tốc độ sản xuất.

Ông Phan Thế Ruệ, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, nguyên thứ trưởng Bộ Thương mại, cũng cho rằng những tháng cuối năm, nhập khẩu thường tăng mạnh nhưng  năm nay tăng chậm là dấu hiệu không tốt cho sản xuất năm tới. Điều này chứng tỏ DN chưa quan tâm nhập nguyên liệu vì lãi suất cao và chưa ký được hợp đồng, chưa có đơn hàng sản xuất cho quý I và II/2012.

Dấu hiệu khác dự báo xuất khẩu Việt Nam sẽ khó khăn trong năm 2012 là các thị trường chủ chốt đều khó khăn. “Sức khỏe” của các DN cũng đang yếu đi do không có vốn, lao động có năng lực bỏ việc dần và nhiều khó khăn nội tại khác về quản trị đang bộc lộ.

Không bền vững

TS Cấn Văn Lực, cố vấn cao cấp - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), lưu ý rằng thành tích tăng xuất khẩu 30% của Việt Nam năm 2011 chủ yếu là do tăng giá, còn tăng về lượng chỉ đạt 17%.

Như vậy, DN sẽ làm thế nào khi thị trường chủ chốt là Mỹ và EU (chiếm 31% thị phần xuất khẩu của Việt Nam) đang đối mặt với khủng hoảng nợ? Đây là khó khăn lớn cho DN Việt Nam trong năm tới, đồng nghĩa với kết quả giảm nhập siêu kém bền vững.

Theo ông Phạm Tất Thắng, nếu giảm nhập siêu chỉ tập trung vào biện pháp thương mại trong khi nới lỏng ở biện pháp đầu tư thì sẽ không đạt kết quả.

Gần đây, nhập siêu qua dự án nước ngoài rất lớn. Do đó, bên cạnh việc tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ để tăng khả năng cung ứng nguyên phụ liệu cho hàng xuất khẩu, cần có giải pháp quản lý chặt nguồn hàng hóa, nguyên, nhiên vật liệu và thiết bị qua con đường dự án đầu tư của nước ngoài.

Các chuyên gia cũng cho rằng giải pháp giảm nhập siêu vừa qua chủ yếu mang tính hành chính, ngắn hạn, chưa mang lại kết quả cao và khó áp dụng lâu dài. Về lâu dài, phải chủ động được nguyên liệu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, chăn nuôi.

Hiện nông nghiệp Việt Nam cũng đang có nguy cơ trở thành gia công của các nước. Mỗi năm, ngành chăn nuôi nhập khẩu 2 tỉ USD đậu nành, bắp, bột cá, khoáng chất làm thức ăn chăn nuôi. Nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cung cấp tiền làm chuồng, con giống để nông dân gia công nuôi heo cho họ xuất khẩu. Đây được xem là hình thức nhập khẩu trá hình…

 

Theo NLĐ


 


 

Tin mới cập nhật